Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ

17 Tháng Giêng 202005:13(Xem: 6056)
Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ
Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ 

Thích Trung Hữu


Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ
 
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu rõ mối quan hệ nhân quả ấy xảy ra như thế nào. Xin được chia sẻ một ít hiểu biết về vấn đề này.

Nhân Giới sanh Định

Giới, nói một cách dễ hiểu là ngăn chặn người ta làm những điều tội lỗi, lỗi lầm sai trái, những điều mà khi làm người ta cảm thấy trong lòng bất an như lo lắng, sợ hãi, bồn chồn hoặc mặc cảm tội lỗi. Trạng thái tâm lý này có thể xảy ra khi chuẩn bị làm, trong khi làm hay sau khi làm hoặc cả ba giai đoạn. Ví dụ như một người muốn ăn trộm của ai cái gì, họ sẽ hồi hộp khi chuẩn bị làm việc đó, rằng không biết làm có thành công hay không, hay là sẽ bị phát hiện và bị bắt. Trong khi làm họ cũng hết sức hồi hộp, nhìn tới nhìn lui coi có ai để ý mình không. Và sau khi làm họ cũng tiếp tục lo sợ không yên vì sợ sẽ bị phát hiện, bị truy tìm nên luôn lẩn tránh hoặc lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Hơn nữa, một người làm ác hay làm những điều sai trái, họ không chỉ sợ mọi người biết mà tự trong tâm họ cũng cảm thấy không ổn. Cái cảm giác đó có khi rõ ràng để họ có thể dễ dàng nhận ra, nhưng có khi lại tiềm ẩn sâu xa trong tiềm thức. Nhưng cho dù hiển lộ hay tiềm ẩn thì mặc cảm tội lỗi vẫn còn đó, như cây kim nằm trong túi áo, như khối u trong cơ thể, chỉ chờ cơ hội là hành hạ con người.


Chuyện kể rằng, một ngôi làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì không có tiền, thường ban đêm lẻn vào vườn rau nhà người ta hái trộm. Hôm đó anh ta mang theo cả con trai đi cùng. Khi người cha vừa mới nhổ một cây củ cải, đứa con bỗng nhiên ở sau lưng khẽ kêu: “Cha... cha..., có người đang nhìn chúng ta kìa”. Cha của cậu kinh hãi, ngó nhìn bốn phía, hoảng hốt hỏi: “Người đó ở đâu?”. Đứa trẻ chỉ tay lên trời trả lời: “Cha xem, là mặt trăng đang nhìn chúng ta đó!”. Người cha này nghe con trai nói vậy, cảm thấy hổ thẹn về hành vi của mình nên lặng lẽ dắt tay con trai đi về nhà. Dọc đường về, anh ta thầm nghĩ: “Trộm cắp là gây nghiệp rất lớn, có lẽ ông trời từ bi, mượn miệng con trai để giúp mình tỉnh ngộ, từ nay phải sửa sai hướng thiện thôi!”.

Thật ra, không phải đợi tới khi đứa con trai lên tiếng người cha mới nhận rahổ thẹn về việc làm của mình. Anh ta có thể đã ý thức được điều đó từ lâu rồi, nhưng một cách âm thầm. Nói cách khác, anh không muốn đối diệnthừa nhận sự sai trái của mình nên cố tình phớt lờ tiếng gọi của lương tâm. Nhưng khi đứa con trai nói ra điều đó, anh không thể giả ngơ được nữa, không thể coi như không có chuyện gì. Đứa con trai đã nói giùm anh cái điều mà từ lâu anh không dám nghĩ tới, chỉ vì để được “yên tâm” làm việc sai trái.

Trong kinh “Đại bát Niết-bàn” thuộc Trường bộ kinh 1, Đức Phật dạy người giữ giới được năm điều lợi ích. Một trong năm điều đó là “Người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi, không bối rối”. Có nghĩa là người giữ giới thì dù có đi đâu ở đâu đều cảm thấy tự tin, cũng không lo người khác nói xấu mình sau lưng vì họ không làm điều gì xấu. Tục ngữ cũng có câu: “Không làm việc trái lương tâm thì nửa đêm không sợ quỷ gõ cửa”. Người ác luôn có điều ẩn khuất trong lòng, nên luôn bất annơm nớp lo lắng, mỗi thời mỗi khắc đều sống trong “bóng ma ám ảnh” của tội ác mà mình gây nên. Còn người lương thiện có tấm lòng rộng lớn, không có tư tâm tư lợi cho bản thân, không lừa trời, giấu đất, không toan tính hại người, nên không có gì để sợ. Trong lòng họ luôn trong sáng, vô tư nên thân tâm của họ đều thanh tịnh, cuộc sống bình an, hạnh phúc.

Giới luật trong Phật giáo có nhiều loại từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ căn bản cho đến chi li như Ngũ giới, Bát quan trai giới, Sa-di giới, Tỳ-kheo giới và Bồ-tát giới. Tính chất của giới luật là “thanh lương”, tức là mát mẻ, là “biệt biệt giải thoát”, tức là giữ được giới nào thì giải thoát được giới ấy, giữ được ít thì giải thoát ít, giữ được nhiều thì giải thoát nhiều. Nói cách khác, giữ giới là làm cho thân thanh tịnh, do thân được thanh tịnh mà tâm cũng được thanh tịnh theo, hoặc chí ít cũng là tăng thượng duyên cho sự thanh tịnh của tâm. Phật tử tại gia giữ năm giới thì làm người một cách đường đường chính chính, còn người xuất gia phải giữ hàng trăm giới để làm cho thân được hoàn toàn vô cấu, không tì vết, tức là diệt trừ tất cả nguyên nhân của lo sợ và hối hận. Được như vậy thì khi tu tập các đề mục Định sẽ dễ dàng đạt được sự định tâm. Người làm ác hay phá giới tâm luôn bị giằng xé, không thể yên tâm ngồi đó tham thiền nhập định. Cho nên nếu ai đó nói rằng không cần giữ giới mà có thể tu Định được là họ nói không đúng sự thật vậy.

Nhân Định phát Tuệ

Tâm Địnhtâm không còn vọng tưởng. Tâm như đất, vọng tưởng như cỏ dại, gai góc, sỏi đá. Nếu đất bị phủ đầy hay trộn lẫn những thứ này thì đất đó không thể gieo trồng hoa màu gì được. Tâm như mặt trời, vọng tưởng như mây mờ che phủ ánh sáng của mặt trời. Ở mức độ bình thường, người có quá nhiều vọng tưởng hay suy nghĩ quá nhiều thứ trong đầu thì không thể tiếp thu trọn vẹn hay suy tính việc gì một cách thấu đáo, sâu sắc. Trên phương diện tu tập, người chạy theo vọng tưởng là người quên mất bản tâm, cái mà vua Trần Thái Tông gọi là “Lưỡi vướng vị ngon tai vướng tiếng/ Mắt theo hình tướng mũi theo hương” cho nên mới “Lênh đênh làm kiếp phong trần mãi/ Ngày hết quê xa vạn dặm trường”, càng chạy theo khách trần thì càng xa quê hương tự tính.


Tu thiền định là không chạy theo khách trần mà phải trở về với khu vườn tâm của mình để chăm sóc nó, để khai thác nguồn tài nguyên vô tận của tâm địa. Thiền sư Thái Lan Ajahn Chah nói rằng: “Chỉ có một cuốn sách đáng đọc nhất, đó là tâm của chính mình”. Và khi mà “Tâm địa nhược không” thì “Tuệ nhựt tự chiếu” vậy. Cùng ý này, Lão Tử cũng chủ trương về việc học đạo như sau: “Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí vô vi”. Nghĩa là mục đích của việc học ở đời là tích lũy cho được mỗi ngày một nhiều hơn, còn việc tu đạo thì phải làm sao cho mỗi ngày một giảm bớt, ít đi. Giảm rồi lại giảm cho đến mức vô vi mới thôi. Giảm cái gì vậy? Chính là giảm đi sự hiểu biết, giảm dục vọng, giảm vọng tưởng vậy.

Khi ta nói “phát tuệ” nghĩa là trí tuệ đó không phải có được do tiếp thu từ bên ngoài mà là sự sinh khởi từ bên trong. Trong tâm của chúng sinh hàm chứa tất cả phước đức trí năng mà chỉ cần giác ngộ, khai mở là ta có thể thấu hiểu vạn pháp một cách chân thật. Lục tổ Huệ Năng sau khi đại ngộ đã nhận ra tất cả vạn pháp chẳng lìa tự tánh, nên đã phát biểu rằng:


“Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!”.


Kiến thứctrí tuệ đều là sự hiểu biết, nhưng chúng khác nhau như thế nào? Kiến thức là do học mà được, còn trí tuệ là do thiền định mà có. Sự nhận thức của kiến thức có khi sai lệch và không khách quan, còn trí tuệ thì nhìn đúng bản chất của sự vật. Kiến thức có thể đưa tới chấp thủphiền não còn trí tuệ dẫn tới xả ly và giải thoát. Trong kinh Tăng chi bộ, chương Mười một pháp, phẩm Y chỉ, Đức Phật bảo Ananda rằng: “Như vậy, này Ananda, các thiện giớiý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối tiếcý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoaný nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ. Hoan hỷý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an. Khinh aný nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạcý nghĩa định, có lợi ích định. Định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến. Như thật tri kiếný nghĩa nhàm chán, có lợi ích nhàm chán. Nhàm cháný nghĩa ly tham, có lợi ích ly tham. Ly thamý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ananda, các thiện giới thứ lớp dẫn đến tối thượng”.

Thích Trung Hữu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5273)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5834)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7463)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6381)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4761)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5890)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6134)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6601)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5959)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7069)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6684)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4813)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4944)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7722)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9832)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7544)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5336)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6430)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5433)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5848)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6406)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5705)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6447)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7073)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6297)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10681)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6195)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6754)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6514)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5744)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7572)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6265)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9668)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4190)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4314)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4779)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5339)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5297)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5827)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6791)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5558)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4505)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5338)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5007)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4371)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6880)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4620)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8429)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7224)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8382)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7534)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7597)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant