Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

07 Tháng Tám 202013:58(Xem: 4853)
Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Thích Trung Định

Nguyên Tắc Để Được Thành Phật

Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần); đặc biệt vào triều đại nhà Đường thường được sử dụng trong tài liệu tham khảo về nguồn gốc của Phật giáo Ấn Độ.

Theo quan điểm của người Nhật, thế giới cổ đại duy chỉ tồn tại có ba nước mà họ chỉ định là ba vương quốc cõi trời, đó là Nhật Bản (Yamoto), Trung Quốc (Zhongguo), và Ấn Độ (Tenjiku).

Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mạivăn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáoPhật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo.

Vào thời nhà Đường Phật giáo phát triển mạnh. Những tinh hoa của giáo lý Phật giáo đều nở rộ trong thời đại này. Mà Phật giáo lại xuất phát từ Ấn Độ, nên hầu như mọi người Trung Quốc đều ngưỡng mộ đất nước đã sinh ra bậc Thầy tinh thần vĩ đại của nhân loại đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta cũng thấy rất rõ thiện chí này trong tư tưởng của Huyền Trang đại sư. Ngài luôn nghĩ rằng, lời dạy của đức Phật còn nguyên vẹn thì chỉ có ở Ấn Độ. Chính suy nghĩ này đã thúc đẩy ngài lên đường Tây du để thỉnh kinh. Và đã diễn ra cuộc thỉnh kinh vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Phật giáo. Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là “Thân Độc” (身毒), hay “Thiên Trúc” (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong “Đại Đường Tây Vực ký” của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường. Trong bộ sách này cụm từ “Tây Trúc” hay “Thiên Trúc” được ngài Huyền Trang sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Đối với người Nhật Bản, Ấn Độ được biết đến như Thiên Trúc Tenjiku vì là nơi sinh ra Đức Phật, một bậc thầy vĩ đại của trời, người. Mặc dù người Nhật đã có một tôn giáo bản địa gọi là “Thần đạo”, nhưng họ rất ấn tượng với triết lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Shinto, kami được định nghĩa trong tiếng Anh là tinh thần tinh chất hay vị thần được liên kết với nhiều hình thức trong một số trường hợp đối với con người.

 Theo quan điểm của Thần đạo thì thế giới ‘duy linh’ hay ‘năng lượng tự nhiên’ trong thế giới hữu hình như mặt trời, mặt trăng, sông, núi, cỏ cây...đều có sự kết nối mật thiết với con người. Trong Shinto, thế giới ‘duy linh’ không tách biệt mọi người mà chúng cùng tồn tại, cùng ảnh hưởng lẫn nhau. Shinto là một tôn giáo dựa trên vẻ đẹp tự nhiên của Nhật Bản. Nó bắt đầu trong mọi thứ quyền lực do một vị thần hoặc kami, tương tự như một hào quang sống.

Người Nhật Bản tìm thấy Phật giáo đặc biệt hấp dẫn bởi vì Phật giáo Đại thừa cung cấp cho họ rất nhiều hình thức của sự thờ phượng và những nghi lễ tâm linh. Đều này tương ứng với kami trong Shinto giáo. Trong đạo Phật, người Nhật tìm thấy một sức mạnh kỳ diệu để chữa trị tâm bệnh. Đặc biệtgiáo lý từ bi, sự cảm thông chia sẻ và sự giải thoát khỏi những ưu phiền, đau khổ. Không giống như Shinto, Phật giáoTam tạng kinh điển, một nền văn học tôn giáo đồ sộ, một học thuyết thâm sâu, phong phú, đủ đáp ứng cho con người vô số giáo lý nhằm cung ứng cho những căn cơ trình độ khác nhau, ai cũng có thể tiếp nhận, tu tập để kiến tạo sự an lạc giải thoát trong giáo lý ấy. Hơn thế nữa, Phật giáo có một tổ chức Tăng đoàn thanh tịnhhòa hợp. Họ là những con người luôn thể hiện tinh thần ‘thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh’, tiếp nối thay Phật truyền bá lời Phật dạy tại thế gian này. Phật giáo còn có một truyền thống rực rỡ của nghệ thuật tôn giáo và kiến ​​trúc điêu khắc đặc thù. Nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật kiến trúc chùa chiền mang tính hài hòa và trình độ thẩm mỹ cao.

Người Nhật thiếu những nền triết thuyết tôn giáo vĩ đại như Ấn Độ. Họ đã rất choáng ngợp bởi các kinh điển Phật giáo, triết học, và các và các công trình kiến trúc nghệ thuật Phật giáo. Từ những ấn tượng đó, bắt đầu họ xem Ấn Độ là ‘Tenjiku’ Thiên Trúc (天竺)  một cõi Thiên đường đã tồn tại ở phía Tây. Đó là những ấn tượng tốt đẹp, một nơi đáng mơ ước để đến chiêm bái, kính lễphụng thờ.

Từ Tenjiku đến Indo

Hình ảnh Ấn Độ được xem như Thiên Trúc mang một ý nghĩa tinh thần và sự yên bình bắt đầu thay đổi sau khi người ta phát hiện ra các tuyến đường biển trong thế kỷ 15, các thương gia châu Âu bắt đầu đến Ấn Độ. Không giống các du khách Trung Quốc như ngài Pháp HiểnHuyền Trang đến Ấn Độ để chiêm bái các Thánh tích Phật giáo và để thỉnh Tang tạng kinh điển. Những du khách châu Âu đến Ấn Độ với mục đích tìm kiếm của cải vật chất như trà, hàng dệt may, gia vị, gấm lụa và các vật phẩm quý hiếm khác. Các thương nhân này đến Ấn Độ họ mang theo một nền văn hóa mới gọi là: Namban Bunka và nhiều mặt hàng hấp dẫn và quý hiếm như ngà voi, ngọc traicác loại gia vị. Như vậy, từ thế kỷ thứ 15 trở đi, người ta đến Ấn Độ với mục đích để buôn bán, trao đổi hàng hóa chứ không còn đến với ý nghĩa tinh thần cao quý như trước đây nữa. Hơn nữa, vào thời điểm này đất nước Ấn Độ đã bị hồi giáo xâm lược. Các thánh tích Phật giáo đều bị quân Hồi giáo tàn phá, vùi lấp. Những tu sỹ cũng bị chém giết, một số sống sót thì phải lưu vong, dần dần Phật giáo cũng đã biến mất khỏi đất nước sinh ra nó.

Sự biến đổi thế cuộc trong chính trị và tôn giáoẤn Độ diễn ra làm hình ảnh của một đất nước được ví như “thiên đường” hoàn toàn biến mất trong nhận thức chung của mọi người. Biểu tượng ‘Thiên Trúc’ của Ấn Độ được thay đổi qua một thuật ngữ khác đó là Indo. Indo nghĩa là ‘Đông dương’ nó cũng mang một ý nghĩa của sự sung túc. Chính vì sự sung túc trong các hàng hóa, vật liệu quý hiếm nên người ta đến Ấn Độ để giao tiếp thương mại nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh vốn có của họ. Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus). Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là “người của Indus”.

Vào giữa thế kỷ XIX khi Ấn Độ trở thành thuộc địa chính thức của Vương quốc Anh. Vào thời điểm đó, Trung Quốc cũng bị mất chủ quyền. Nền văn hóa truyền thống lâu đời của họ cũng bị ảnh hưởng. Từ đó, người Nhật Bản xem hai đất nước này trở nên “tiêu cực”  mà Nhật Bản không muốn đặt quan hệ ngoại giao. Sự biến dạng văn hóa và phong cách sống của người dân Ấn Độ đã làm thay đổi hình ảnh đẹp đẽ Thiên Trúc của mình trong tâm thức của người Nhật nói riêng và thế giới nói chung. Ngày nay, khái niệm Thiên Trúc không còn nữa. Cụm từ hoa mỹ này đã đi vào dĩ vãng. Nhưng sự ảnh hưởng của nó trong một thời gian lâu xa đã cho thấy sự kính ngưỡng của người con Phật đối với đất nước sản sinh ra Đức Phật, bậc thầy vĩ đại của nhân loại vẫn cong nguyên vẹn. Hiện nay, Phật giáo tại Ấn Độ đang dần dần phát triển trở lại. Người Ấn vẫn tự hào vì đất nước của họ đã sinh ra Đức Phật và là nơi khơi nguồn của Đạo Phật. Nhiều di tích mang dấu ấn của Đức Phật vẫn được chính phủ Ấn Độ giữ gìn cẩn thận. Hệ thống Phật tích được khám phá gần như toàn diện bởi các nhà khảo cổ học danh tiếng. Hằng năm, nhiều đoàn hành hương của người con Phật từ khắp nơi trên thế giới đều tìm về đây chiêm báiđảnh lễ. Khi được trải nghiệm thực tế trên đất Phật họ cảm nhận được năng lượng mầu nhiệm từ Đức Phật dường như vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn. Chúng ta cảm ơntri ân họ, người Ấn hiền hòa dễ thương đã trân quý và lưu giữ những thánh tích Phật giáo còn nguyên vẹn. Giá trị tâm linh của những thánh tíchmiên viễn, để nguồn mạch Phật đạo vẫn luôn tuôn chảy mang lại lợi lạc cho mọi người trên thế giới này.

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21923)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 8034)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7718)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8829)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7126)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9342)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8787)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10234)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8208)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9544)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6963)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7999)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8375)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8638)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8402)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8519)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11255)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8562)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10690)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9460)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9267)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9572)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10339)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16203)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19174)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8683)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8031)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24152)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9396)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7646)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10558)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17724)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6953)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8877)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12367)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7711)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14620)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8258)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7794)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8856)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14807)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9270)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12331)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8506)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14517)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12485)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8409)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10158)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7759)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16028)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8214)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8279)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7865)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11190)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9139)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9277)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8398)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7558)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8008)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8807)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant