Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật GiáoSức Khỏe Tâm Thần

10 Tháng Tám 202015:24(Xem: 3903)
Phật Giáo Và Sức Khỏe Tâm Thần
Phật GiáoSức Khỏe Tâm Thần

HT. Thích Thánh Nghiêm

Tám Ngọn Gió


Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ.  Chính ở nơi đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến những vấn đề của bệnh khổ. Bệnh khổ bắt đầu từ lúc sinh; khi ta được sinh ra, là khổ đau đã bắt đầu. Người chưa từng có bệnh khổ là người chưa có mặt trên cõi đời. Khổ chỉ chấm dứt sau khi chết. Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.

Đức Phật nhận thấy rằng cứu chữa cho tâm quan trọng hơn là cho thân. Người có tâm lành mạnhhành vi thiện lành sẽ ít bị vấn đề nơi thân hơn là người có tâm bệnh. Nếu tất cả những vấn đề của tâm đều được giải trừ, thì đó là giải thoát. Người có thân mạnh khỏe nhưng tâm bệnh sẽ đau khổ nhiều hơn là người chỉ có những vấn đề nơi thân.

Thân bệnh thì đau đớn; tâm bệnh thì khổ não. Phật pháp không thể giúp chúng ta khỏi đau đớn. Phật pháp không phải là thuốc tê, nhưng nó có thể giúp diệt trừ khổ não.

Theo Phật giáo, có ba nguyên nhân gây ra khổ

1- Vô minh về sự khởi thủy (Không biết về sự không-có cái bắt đầu)

Các tôn giáo ở phương Tây thường thuyết giảng về sự khởi đầu. Khoa học Tây phương đặt giải thuyết về nguồn gốc của trái đất, và vũ trụ. Vấn đề của sự khởi đầu khá khó giải quyết. Đức Phật cho rằng không có sự khởi đầu. Trong một vòng tròn đâu là điểm khởi đầu. Dầu rằng có thể có một điểm khởi đầu, nhưng bạn hãy thử cố gắng đi, bạn sẽ không thể tìm ra nó. Do đó chúng ta nên chấp nhận không có điểm khởi đầu. Nếu bạn hỏi, “Khổ đau từ đâu đến?”, người con Phật sẽ trả lời, “Khổ từ vô thủy đến”.

2- Vòng nhân quả của khổ não

Quả mà ta đang hứng chịu trong hiện tại là do nhân gây ra trước đó. Quả này ngược lại sẽ trở thành nhân cho quả tương lai. Càng sống, chúng ta càng không ngừng tạo ra nhân tương lai.

3- Những khổ não

Có ba nhân tạo ra khổ não:

a) Môi trường:

Trong chuyến đi này tôi thực sự có cơ hội được tận mắt thấy thành phố San Francisco đẹp biết bao.  Nhưng thời tiết rất đa dạng: có sương mù và gió; nhiệt độ biến đổi nhanh chóng từ lạnh đến ấm. Dầu chúng ta có nghĩ San Francisco giống như cõi tiên, thì người sống ở đây cũng bị bệnh.

Sớm hôm nay khi tôi ngồi cùng xe với bà chủ nhà. Lúc bà hắt hơi, tôi hỏi, “Bà bệnh sao?” Bà ấy trả lời, “Không, tôi chỉ bị dị ứng với không khí lạnh. Đúng vậy ngay ở San Francisco cũng có bệnh. Dĩ nhiên là phải có lý do người ta mới xây nhiều bệnh viện to lớn như thế này ở đây. Ngay một nơi như ở đây, với bầu trời quang đãng, không khí trong lành, vẫn có chất ô nhiễm hay mầm bệnh trong không khí hay vi khuẩn trong thực phẩm gây bệnh cho chúng ta. Môi trường có thể là một nguyên nhân lớn trong việc gây ra khổ não cho chúng ta.

b) Các mối liên hệ

Các mối liên hệ có thể mang đến cho chúng ta nhiều phiền não. Ai chịu trách nhiệm cho phần lớn những khổ não của chúng ta? Phần đông nghĩ chính là kẻ thù của họ. Thật ra không nhất thiết là như vậy. Thủ phạm có thể chính là chồng, vợ hay con của ta. Người mà chúng ta thường tranh cãi nhất không phải là kẻ thù của ta mà chính là những người thân thiết nhất của ta. Hàng ngày chúng ta không chỉ phải đương đầu với người thân mà còn bao nhiêu người khác nữa, có người ta biết, người không. Có người giúp ta, người cản trở ta. Chúng sanh không dừng tranh hơn thua với nhau.

Hôm qua khi tôi thuyết giảng tại Đại học Stanford, có thính giả than phiền là những kẻ trí thức thực sự rất ích kỷ. Dĩ nhiên người trí thức là những người thông minh. Lý ra họ phải giúp đỡ và hỗ trợ nhau.  Điều họ không nên làm nhất là xâu xé nhau. Tuy nhiên, ngay chính người thông minh cũng không tránh khỏi thói nhỏ mọn, tỵ hiềm trong bản tánh của con người. Tôi thường hỏi, “Ở đây có ai chưa từng ganh đua với người khác hay không cảm thấy người khác ganh đua với mình? Có ai không?” Câu trả lời luôn là không.

c) Xáo trộn cảm xúc

Kẻ thù lớn nhất của chúng ta không ở bên ngoài. Chúng ta phiền não phần lớn chính là do tâm ta.  Chúng ta luôn thay đổi cảm xúc. Chúng ta có thể chuyển từ hống hách đến rụt rè, với thời gian chúng ta thay đổi cái nhìn về sự vật. Do đó, chúng ta bị xáo trộncảm thấy bất lực, không thể quyết định điều gì. Ta lo lắng về được, mất, phải hay trái, và không thể quyết định phải làm gì. Điều này thực sự là khổ sở. Có nhiều người phải khổ như thế, nhưng lại tin rằng họ không có vấn đề gì. Khi họ phủ nhận rằng họ có vấn đề, họ có thể nhảy cỡn lên, quậy tưng, đưa bản thân đến những trạng thái giận dữ cùng cực. Có lần tôi hỏi một người như thế, tại sao anh có quá nhiều phiền não. “Đâu phải tại tôi”, anh ta phản kháng, “chính là tại mấy kẻ đốn mạt kia đã làm cho tôi khổ thế này”. Thực sự, chính anh ta gây ra phiền não cho mình.

Hôm qua tôi đi cùng xe với bốn người. Mấy người này tham gia vào một cuộc tranh cãi quyết liệt. Một người nói với tôi, “Xin lỗi sư phụchúng tôi tranh cãi quá nhiều”. Tôi trả lời, “Quý vị tranh cãi với nhau, đâu phải chuyện của tôi”. Thực ra tôi có nghe họ cãi vã không? Dĩ nhiên là có. Nhưng tôi không tham gia câu chuyện. Sáng nay, một trong bốn người đó lại nói với tôi, “Tôi chịu không nổi khi nghe người ta tranh cãi nhau. Âm thanh của nó khiến tôi khó chịu”. Bạn có thể nghĩ là anh ta đang phản ứng lại điều gì đó ở bên ngoài mình. Sự thật chính anh ta mới làm cho mình bị phiền não. Phiền não từ trong anh mà ra.

Phật giáo phân ra năm loại tâm phiền não: tham, sân, si, mạn và nghi. Khi bị xáo trộn, chúng ta có thể cố gắng phân tích trạng thái tâm phiền não đó. Khi đã có thể xếp phiền não của mình vào loại nào, và quán chiếu về nó, thì ta có thể giảm thiểu cường độ của nó. Khi bị tham làm chủ, chúng ta có thể quán: “Tôi đang tham, tôi có những ham muốn mạnh mẽ”. Sau đó trạng thái tâm tham sẽ tự động giảm thiểu.

Khi sân, chúng ta cũng có thể quán: “Tại sao tôi lại sân đến thế? Tôi đang khổ do tâm sân”. Bằng cách đó tâm sân và phiền não sẽ bắt đầu giảm xuống. Ta phải quay nhìn vào, không phải hướng ra ngoài.  Đừng phân tích vấn đề, hãy phân tích chính tâm của bạn.

Khi ta lầm lỗi và cảm thấy hối tiếc về điều gì đó, tốt nhất là ta phải quán chiếu xem mình đã làm gì. Nếu thực sự đó là một hành động bất thiện, hãy quán: “Tôi đã hành động không khôn khéo”. Từ đó ta sẽ bớt phiền não, ân hận.

Mạn, tự nó cũng là một loại phiền não. Nhận biết về các cảm xúc này khi chúng khởi lên, sẽ giúp ta chế ngự được chúng.

Nghi cũng là một loại phiền não. Nghi sẽ cản trở chúng ta quyết định. Ta sẽ không thể tin tưởng tha nhân cũng như bản thân. Đó đúng là phiền não. Nếu bạn biết mình bị tâm nghi hoặc quấy nhiễu, bạn cần phải quán như sau: “Tôi cần phải hoàn thành công việc này, công việc nọ, nên tốt nhất tôi phải tin tưởng rằng mình có khả năng và đó là việc cần phải làm”. Nếu thực sự tin như thế, ta sẽ có thể hoàn thành bất cứ điều gì ta muốn làm.

Trạng thái tâm nghi có thể ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống của ta. Thí dụ một người đã quyết định kết hôn, nhưng quyết định này lại bị lung lay bởi tâm nghi. Người đó ngần ngại không biết cuộc hôn nhân của mình có tan vỡ, liệu người hôn phốibỏ rơi mình sau khi thành hôn, hoặc người đó có thiếu trung thực, có giấu giếm mình điều gì không? Nếu tâm nghi này không được chế ngự, người đó sẽ rất khổ sở trước ngưỡng cửa hôn nhân và sẽ đau khổ suốt cuộc hôn nhân. Dầu không có lý do gì thực sự có thể khiến cho đôi lứa phải chia tay, nhưng chính tâm nghi sẽ tạo ra lý do để đưa đến những vấn đề trong cuộc sống vợ chồng.

Nếu bạn có những nghi hoặc như thế, hãy tự nhủ: “Nếu tôi thực sự có quá nhiều nghi hoặc, thì quyết định kết hôn là hành động rồ dại. Nếu tôi thực sự muốn kết hôn, tôi cần chấp nhận người phối ngẫu, hoàn toàn chấp nhận người đó”. Nếu ta không thiết lập được một thái độ như thế, thì tốt hơn ta nên sống độc thân, vì hôn nhân sẽ chỉ mang đến cho ta sự khốn khổ. Có ai không có tâm nghi hoặc không? Tôi chưa từng gặp ai hoàn toàn không có tâm nghi.

Theo Phật giáo, có năm nguyên nhân đưa đến sự xáo trộn của tâm:

- Theo đuổi một đối tượng mà không xét đến những ưu và khuyết điểm của mình. Nói cách khác là ta không biết mình có gì và không bao giờ bằng lòng với cái mình có. Hoặc khi phải đối mặt với hoàn cảnh vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, ta lại luôn dằn vặt với ước muốn chống lại điều không thể tránh khỏi. Nhiều người, nhất là những người trẻ, tin rằng khả năng của họ là vô hạn. Nhìn những gì người khác đã thực hiện, họ nghĩ rằng, họ cũng có thể làm được như thế. Nhưng khi những điều kiện không thuận lợi phát sinh, họ cảm thấycá nhân họ bị trù dập, nên phản kháng lại thay vì chấp nhận những gì đang xảy ra.

- Có ước muốn được phát triển và thành công vô độ. Người có tâm lý xáo trộn này luôn muốn khuếch trương cái mình có. Họ muốn dàn trải tầm ảnh hưởng của mình vượt ngoài mọi giới hạn. Người cố sức tạo danh để cả thế giới biết đến mình. Kẻ lại dùng quyền lực để đè bẹp những ai dám đối đầu với họ.  Những cuộc tranh đấuquyền lực như thế có thể xảy ra giữa các quốc gia hay chính trong các gia đình.  Một người vợ có thể cố gắng điều khiển chồng hay ngược lại. Lòng tham muốn thống trị người khác thể hiện một tâm lý bị xáo trộn.

- Khi đạt được một mục đích hay vật chất gì đó, lòng tự mãn phát sinh. Thái độ đó có thể dẫn người ta đến sự vô tâmcoi thường người khác. Người tự mãn có thể nghĩ rằng họ có quyền xúc phạm hay gạt người khác qua một bên tùy theo ý thích cá nhân của mình.

- Khi không đạt được một mục đích gì đó thì sinh tâm chán nản. Người với tâm lý bị xáo trộn này thường dễ chán nản, không còn tự tin nơi bản thân. Người này cũng có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác.

- Nghi hoàn toàn chế ngự tâm. Cảm giác bất an nặng nề. Lòng tự tin mau chóng tàn lụi.

Tôi không phải là nhà tâm lý học hay tâm thần học. Tôi không có kiến thức sâu sắc về tâm lý học cổ điển mà tôi cũng không rành mạch trong việc phân loại các bệnh tâm thần nói chung. Tôi chỉ dựa trên quan điểm Phật giáo phân loại các vấn đề tâm bệnh như trên. Từ năm loại tâm bệnh này có thể sản sinh ra vô số các tâm bệnh khác. Nên nhớ là Phật giáo không quan tâm đến nguyên nhân hay bệnh lý của các yếu tố đặc biệt đưa đến sự khủng hoảng tinh thần của người bệnh. Phật giáo chỉ quan tâm đến việc nhận biết và trừ bỏ các xáo trộn tâm lý.

Giờ tôi sẽ nói về phương cách làm thế nào để quân bình tâm và chữa trị các tâm bệnh.

Chúng ta thường đối mặt với những xáo trộn tâm lý của mình bằng cách sử dụng hai phương cách không hiệu quả. Đầu tiên là sự chối bỏ: “Tôi không có bệnh. Tôi không có vấn đề gì cả. Không có gì sai lệch nơi tôi cả”. Cách thứ hai là tự chữa trị: luôn quay lại trong đầu các sai sót và những gì mà người đó nghĩ là thuốc chữa cho mình. Hành động này thiết lập một giả định sai trên một sai sót khác. Cả hai phương cách này chỉ khiến vấn đề thêm tệ hại và nghiêm trọng hơn.

Các bác sĩ tâm thầntâm lý học sử dụng phương pháp thổ lộ, tâm sự để phân tích và giúp giải thích các vấn đề của con bệnh. Dầu đúng là mục tiêu của phương pháp này là để người bệnh có thể nhận ra hiện thực, nhưng theo quan điểm của Phật pháp, nó chỉ có tính cách nhất thời và chưa hoàn chỉnh. Đó là vì bác sĩ chỉ có thể khám phá ra một phần của vấn đề, và chính bản thân người bệnh cũng chỉ có thể biết một phần chứ không phải là một bức tranh toàn diện của căn bệnh của mình. Và vấn đề lại tiếp tục xảy ra sau các buổi tư vấn, do đó đôi khi người bệnh phải tiếp tục điều trị hằng mười hay hai mươi năm mà không có kết quả thực sự. Chỉ việc này thôi cũng khiến bác sĩ bệnh theo luôn.

Cách chữa trị của Phật giáo có thể chia làm hai lãnh vực chính: thay đổi tư duy và các phương pháp thực hành.

Thay đổi tư duy 

a) Tư duy về nhân quả

Dầu tư duy này thuộc tôn giáo, nhưng nó cũng là thực tại. Nó là một `thực tại vì trong suốt cuộc sống của chúng ta, bất cứ chúng ta làm gì, cũng có sự phản hồi hay hậu quả của hành động của chúng ta. Dựa trên tín tâm, chúng ta tin rằng đã có kiếp sống trước kiếp này, và kiếp trước đó nữa, và không biết bao nhiêu kiếp sống trong quá khứ. Nhiều thứ hiện chúng ta đang phải nếm trải có vẻ bất công, nhưng đó chỉ là hậu quả của những hành động mà ta đã làm trong quá khứ. Có tin như thế, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận những gì xảy ra cho ta, dầu tốt hay xấu. 

b) Tư duy về nhân duyên

Tất cả các pháp sinh và diệt là do sự tích lũy và tương tác của nhiều yếu tố khác nhau. Nhân của hoa là hạt giống, nhưng đất, nước, và ánh sáng mặt trời phải có mặt để cây có thể sống. Thiếu thời gian hay sự bứng rể, hoặc thiếu nước, thiếu ánh sáng mặt trời sẽ khiến cây hoa khô héo, rồi chết đi.

Khi đạt được điều gì, ta không cần phải quá vui mừng, hay hãnh diện. Không cần biết chúng ta đã đạt được bao thành tích, điều đó không thể xảy ra nếu không có sự giúp đỡ trực tiếp hay gián tiếp của nhiều tha nhân. Và do chúng ta cũng biết rằng những gì hôm nay có mặt, một ngày nào đó cũng sẽ qua đi, nên ta không cần phải quá thất vọng khi đối mặt với những nghịch duyên hay chướng duyên. Châm ngôn cũng có câu, “Sau cơn mưa, trời lại sáng”.

Tâm thanh tịnh sẽ giúp ta dễ dàng đón nhận khổ đau hay hạnh phúc. Đó là biểu hiện của tâm lành mạnh

c) Từ bi

Người ta thường muốn kẻ khác có lòng bi mẫn đối với mình, nhưng lại ít khi nghĩ đến việc có lòng từ bi đối với người khác. Có nhiều người khi lầm lỗi thì đòi hỏi phải được tha thứ: “Đừng so sánh tôi với một vị Thánh!”, họ nói. Nhưng khi thấy người khác làm lỗi thì họ sẽ nói, “Anh thật là thiếu năng lực. Tại sao anh không thể làm việc đó cho đúng ngay lần đầu!”.

Lòng từ bi đòi hỏi bốn yếu tố:

+  Hiểu rõ các nội kết của bản thân và phát triển sự hài hòa nội tại.

+  Thông cảm với những khiếm khuyết của người.

+  Tha thứ lỗi của người.

+  Quan tâm đến khổ đau của người khác.

Yếu tố thứ nhất rất quan trọng. Để có thể tự tại với chính mình, ta cần phảitâm thanh tịnh, bình an.

Để được như thế, ta phải luôn chánh niệm về giáo lý nhân quảnhân duyên. Điều đó sẽ giúp ta có được tâm bình an, tĩnh lặng. Được thế ta mới có thể từ bi, đồng cảm, tha thứquan tâm đến người.

Các phương pháp thực hành

a) Niệm Phật

Phương pháp này là thường niệm hồng danh Phật. Có hai lý do để hành phương pháp này. Trước hết, niệm hồng danh Đức Phật để được vãng sinh vào cõi Tịnh độ sẽ mang đến cho ta niềm hy vọng về tương lai, do đó giúp ta dễ dàng buông bỏ hiện tại. Thứ đến, niệm Phật cũng giúp ta giải tỏa được những vấn đề tâm thần. Khi tâm lý bạn bị xáo trộn, bạn có thể dẹp bỏ sân, si và những vấn đề tâm thần khác bằng cách chú tâm vào niệm danh hiệu Phật. Tôi thường khuyên mọi người, “Khi quý vị nổi giận, muốn la mắng ai, hãy niệm danh hiệu Đức A Di Đà”. Làm vậy ta đã gửi tâm sân của ta đến Đức Phật A Di Đà. Nó trở thành việc của Ngài. 

b) Hành thiền

Tọa thiền giúp ta thâu nhiếp tâm tán loạnthanh tịnh hóa tâm uế nhiễm. Có nhiều phương cách hành thiền cũng như nhiều cấp bậc chứng đắcchúng ta không có thời gian để đi sâu vào chi tiết ở đây.  Tuy nhiên, tôi có thể giới thiệu khái quát với quý vị về một số chứng đắc mà quý vị có thể đạt được:

Khi quý vị đạt đến một điểm mà tâm không còn vọng tưởng, thì đó gọi là thiền chỉ (samadhi). Khi ở trong trạng thái đó, không có ai, không có vấn đề gì có thể quấy nhiễu quý vị. Từ trạng thái định đó, quý vị có thể phát triển tuệ về vô ngã. Đó là sự giác ngộ trong Thiền Phật giáo (Ch’an hay Zen). Để đạt được giác ngộđược giải thoát khỏi các tâm bệnh, tâm xáo trộn. Khi quý vị luôn ở trong trạng thái này, không thối thoái, đó được gọi là Đại ngộ. Nếu không thì quý vị chỉ được Tiểu ngộ. Các vấn đề của tâm lúc trước có thể tái xuất hiện nếu quý vị chỉ đạt đến mức độ này, nhưng quý vị sẽ biết cách hóa giải chúng. Ngay nếu như chỉ đạt được Tiểu ngộ cũng đã là một bước quan trọng. Nhưng hãy nhớ rằng khi quý vị mới bắt đầu hành thiền đó cũng là một bước quan trọng vậy. 

(Theo, Buddhism and Mental Health được đăng trên báo Ch’an Newsletter - số 90, tháng 1-1992)





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8268)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7855)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7913)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9044)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26213)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13895)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28049)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19910)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7815)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7667)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7527)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8078)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9806)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22810)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16952)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8597)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10430)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10614)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11322)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9921)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10598)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12750)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8832)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19904)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20887)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21431)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13487)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10598)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9563)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26815)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10771)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12164)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30969)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14192)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11207)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11143)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11293)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11688)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12793)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24103)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14946)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11664)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20294)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10632)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10414)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12336)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11527)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14325)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11983)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24700)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12379)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22322)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12585)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12754)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12668)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16850)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13788)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13078)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13533)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12636)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant