Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)

02 Tháng Mười 202017:43(Xem: 4167)
Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)
Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)
Stutyatitastava; bstod pa las ’das par bstod pa)
In Praise of The One Beyond Praise

Bản dịch Anh: Karl Brunnholzl
LONG THỌ
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

hoa sen



[1]

Như Lai ngài đã du hành

Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng

Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ

Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.

[2]

Dù ngài thấy các pháp đều rỗng thông

Chẳng có tự ngã, tha ngã, và tự ngã và tha ngã

Đại bi của ngài chẳng rời bỏ các hữu tình

_ Thật vô cùng huyền diệu!

[3]

Chẳng sinh khởi từ bất kỳ yếu tính tự hữu

Và trong phương trời viễn ly ngôn ngữ

Các pháp mà ngài đã thuyết giảng

Tượng trưng trạng thái vô cùng huyền diệu của ngài.

[4]

Các uẩn, các xứ, và các giới

Ngài trên thực tế đã tuyên thuyết

Nhưng bất kỳ chấp thủ nào vào chúng

Ngài cũng đã hóa giải trong sát na tương tục.

[5]

Chẳng đến từ các duyên

Làm thế nào để các thực thể sinh khởi từ các duyên?

Thông qua tuyên thuyết như thế, thưa Đấng Thánh Trí,

Ngài đã xóa bỏ các điểm quy chiếu cấu trúc của tưởng.

[6]

Sự duyên hội xảy ra do bởi một tập hợp các nguyên nhân

Các thực thể sinh khởi từ tập hợp này làm nguyên nhân của chúng

Những kẻ nào thấy nó theo cách đó, tin cậy vào đối lập song đối

Thưa Đạo sư, ngài thấy chúng tin như vậy mà chẳng hề hoài nghi.

[7]

Các thực thể xảy ra trong sự tùy thuộc vào các duyên

Điều này thực sự ngài vẫn tuyên thuyết.

Nhưng nó bị hiểu sai rằng các thực thể được sinh khởi một cách thực hữu

Thưa Đạo sư, ngài cũng được thấy bởi hữu tình là thực hữu.

[8]

Chẳng đến từ bất kỳ đâu,

Chẳng đi bất kỳ đâu,

Tất cả các thực thể đều tương tợ các phản chiếu trong gương –

Đây là điều ngài đã liên tục nhấn mạnh.

[9]

Để buông bỏ tất cả các tri kiến

Thưa đấng bảo hộ, ngài đã tuyên bố các thực thể đều là không (= rỗng thông chẳng có yếu tính tự hữu).

Nhưng cái đó cũng chỉ là tên tạm đặt, được quy ước theo tập quán

Thưa đấng bảo hộ -- ngài chẳng chủ trương tánh không này là thực hữu.

[10]

Ngài cũng chẳng xác định không, hoặc bất không,

Ngài cũng chẳng tán thành – không và bất không, chẳng không và chẳng bất không.

Không tranh biện theo lối bất chấp đúng, sai về biểu ngữ này –

Đó là cách thức thông hiểu diệu ngữ của ngài.

[11]

Ngài đã tuyên bố, “Chẳng có các thực thể nào không là các dị biệt,

Cũng chẳng có bất kỳ các thực thể là các dị biệt; cũng chẳng có cả hai: dị biệt và không dị biệt”,  

Bởi vì trạng thái đồng nhất hoặc dị biệt được buông bỏ,

Xem xét theo bất kỳ cách nào, các thực thể đều chẳng tồn tại.

[12]

Nếu bộ ba của sinh trụ diệt đã tồn tại,

Các đặc tướng của các hiện tượng nhân duyên sẽ tồn tại,

Và chúng tất cả ba, tỉ dụ sinh trụ diệt,

Cũng sẽ là dị biệt.

[13]

Nếu nó có yếu tính tự hữu, mỗi một trong bộ ba, tỉ dụ sinh trụ diệt,

Chẳng có khả năng vận hành chức năng theo nhân duyên.

Cũng chẳng có hội hiệp

Của cái này cùng đến với cái kia.

[14]

Xét như thế, các thực thể cũng chẳng có đặc tướng, và cũng chẳng có yếu tính tự hữu,

Bởi vì chúng đều không được an lập theo cách có đặc tướng hoặc có yếu tính tự hữu,

Các hiện tượng hình thành bởi nhân duyên đều chẳng được an lập,

Thì nói chi đến các hiện tượng hình thành bởi phi nhân duyên được an lập.

[15]

Thưa đấng sư tử ngôn thuyết, giảng thuyết của ngài

Đúng là sư tử hống trục xuất

Thanh âm ngu muội ái luyến cái tự ngã của các con voi Vindhya

Vang qua cái vòi ống bễ của chúng.

[16]

Để được xứng đáng với phẩm đức của những kẻ đã khởi hành trên một đạo lộ

Không phụ thuộc vào các thứ nguy hại, hoặc đạo lộ tồi tệ của các tà kiến,

Mà chỉ phụ thuộc vào Ngài,

Chúng tôi không phụ thuộc vào hữu hoặc phi hữu.

[17]

Những kẻ lý hội thông hiểu đúng đắn

Những gì ngài đã giảng về trách nhiệm tương liên của các hệ quả

Chẳng cần thiết phải lý hội thông hiểu thêm một lần nữa

Những gì ngài đã giảng về trách nhiệm tương liên của các hệ quả.

[18]

Trong những kẻ lý hội thông hiểu

Tất cả các pháp đều đồng đẳng với niết bàn,

Làm thế nào có thể có bất kỳ chấp thủ vào “tôi”

Sinh khởi nơi một nhân sinh quan như thế?

[19]

Thông qua phẩm đức tôi kiến lập khi ca tụng ngài,

Đấng vô thượng của các Giác giả,

Đấng Giác giả về pháp tính,

Nguyện tất cả hữu tình trong thế giới đều trở thành các Vô thượng Giác giả.

-----------------------------------------------------------------------

Nagarjuna. Stutyatitastava. In Praise of The One Beyond Praise.

Translated by Karl Brunnholzl

(Source: In Praise of Dharmadhatu by Nagarjuna. Commentary by the third Karmapa. Translated and Introduced by Karl Brunnholzl. Snow Lion 2007—pp 315-317)

****

[1]

The Tathagata who has traveled

The unsurpassable path is beyond praise,

But with a mind full of respect and joy,

I will praise the one beyond praise.

[2]

Though you see entities being devoid

Of self, other, and both,

Your compassion does not turn away

From sentient beings – how marvelous!

[3]

Not arisen by any nature

And in the sphere beyond words –

The dharmas that you taught

Represent your being marvelous.

[4]

The skandhas, dhatus, and ayatanas

You have indeed proclaimed,

But any clinging to them too

You countered later on.

[5]

Not coming from conditions,

How could entities arise from conditions?

Through saying so, O wise one,

You cut through reference points.

[6]

Coming about due to a collection [of causes],

[Entities] originate from this collection as their causes –

That those who see it that way rely on the two extremes

Is what you see very clearly.

[7]

That entities [just] come about in dependence on conditions

Is what you have maintained indeed.

But it being a flaw that they are [truly] produced that way

You, O teacher, have seen like that.

[8]

Neither coming from anywhere,

Nor going anywhere,

All entities are similar to reflections –

This is what you held.

[9]

In order to relinquish all views,

O protector, you declared [entities] to be empty.

But that too is an imputation,

O protector – you did not hold that this is really so.

[10]

You assert neither empty nor nonempty,

Nor are you pleased with both.

There is no dispute about this –

It is the approach of your great speech.

[11]

“There are no entities that are not other,

Nor any that are other, nor both”, you said.

Since being one or other is abandoned,

No matter which way, entities do not exist.

[12]

If the triad of arising and so on existed,

The characteristics of conditioned phenomena would exist,

And all three of them, such as arising,

Would be different as well.

[13]

On its own, each one of the three, such as arising,

Is incapable of conditioned functioning.

Also, there is no meeting

Of one coming together with another.

[14]

Thus, neither characteristics nor their basis exist.

Since they are not established this way,

Conditioned phenomena are not established,

Let alone unconditioned phenomena being established.

[15]

O lion of speech, your speaking like that

Is just like a lion [‘s roar] dispelling

The self-infatuation of Vindhya - elephants

With their trumpeting.

[16]

Just as people embarked on a path

Do not rely on various harmful things

Or bad path of [wrong] views, through rely on you,

We rely on neither existence nor nonexistence.

[17]

Those who understand properly

What you said with implications

Need not understand again

What you said with implications.

[18]

In those who understand

All entities to be equal to nirvana,

How could any clinging to “me”

Arise at such a point.

[19]

Through my merit of praising you,

The supreme of knowers,

The knower of true reality,

May [all beings in] the world become supreme knowers.

------------------------------------------------------------------------

Ghi chú của bản Việt

Entities: các thực thể ; các pháp.

Conditions: các duyên

Conditioned phenomena: các hiện tượng nhân duyên; các hiện tượng hữu vi

Just: adj.

1.acting of being conformity with what is morally upright or equitable; honest and impartial.

2a. being what is merited; deserved. 2b legally correct.

3a. conforming to fact or reason; well-founded.3b.  conforming to a standard of correctness; proper.

Phụ Bản

Thánh Pháp Nhập Lăng già.
Phạn bản tân dịch Phước Nguyên

*

1. Phật bằng trí bi nhìn thế gian,
Nó như là hoa đốm hư không,
Không thể nói là sinh hay diệt,
Nên không thể nói hữu hay vô.

2. Phật bằng trí bi nhìn thế pháp,
Thực tế nó như vật huyễn ảo.
Do nó xa lìa nơi thức trí,
Nên không thể nói hữu hay vô.

3. Phật bằng trí bi nhìn thế gian
Nó giống như là một mộng cảnh,
Không thể nói nó đoạn hay thường,
Nên không thể nói hữu hay vô.

4. Pháp thân tự tính như mộng huyễn,
Ở đó có gì để khen ngợi?
Tán lễ tức không nắm lấy hữu,
Cũng không nắm lấy vô tự tính.

5. Pháp hiện tồn nhưng không thể thấy,
Do nó siêu việt thức và cảnh,
Mâu-ni siêu việt pháp trần cảnh,
Nơi đó có gì đáng khen chê?

6. Phật bằng trí bi lìa hình sắc,
Lại chứng nhân-pháp đều vô ngã ,
Do đây Phật thường hằng thanh tịnh,
Lìa phiền não chướng, sở tri chướng.

7. Phật không diệt ở trong Niết-bàn,
Cũng không trụ ở trong Niết-bàn,
Năng giác, sở giác thảy đều ly,
Cũng lại ly nơi hữu, phi hữu.

8. Nếu ai thấy Mâu-ni như vậy,
Tịch tĩnh, viễn ly nơi sinh tử.
Người đó đời này và đời sau,
Thanh tịnh phược thủ và vô cấu.

--------------------------------------------

Nguyệt Xứng

Giải thích “Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi” của Long Thọ (Kệ tụng 1 - 6)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Nagarjuna’s Reason Sixty with Chandrakirti’s Commentary (Yuktisastikavrtti). Translated from Tibetan by Joseph Loizzo, and the AIBS Translation Team (2007).

*

Những người thường tục chủ trương yếu tính tự hữu thì cũng tương tự như những người thường tục xem các hình ảnh trong gương là thực hữu; họ không có khả năng nhận định rằng các sự vật trong thực tế chẳng có yếu tính tự hữu.

Nhưng, vì mục đích của giáo pháp giúp cho những trí giả cũng giống như những người đã chiêm nghiệm với các hình ảnh trong gương, có năng lực nhận định các sự vật / các tồn tại đều chẳng có yếu tính tự hữu “đều có năng lựchội thông hiểu điều này”, ngài Long Thọ nói:

  1. Những trí giả mà trí của họ vượt ngoài hữu và phi hữu, và chẳng trú ở khoảng giữa hữu và phi hữu, thấy được ý nghĩa của “duyên”: bất khả tư nghị, và tùy thuộc / không độc lập / không tự lập / không có yếu tính tự hữu / không khách quan / bị nhuốm màu cảm xúc.

-----------------------------------------------

Kinh Phổ Diệu. Lalitavistara

(Không thường hằng, không đoạn diệt)

Khi có một hạt giống, có một mầm nhưng hạt giống không là mầm. Nó không phải là một cái khác, tuy nó cũng không là cái đồng nhất. Và do thế không có thường hằng hoặc đoạn diệt.

When there is a seed, there is a sprout, but the seed is not the sprout. It is not something else, though it is not the same thing either. And so there is no permanence or ending.

(Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion - p. 264. Kinh Phổ Diệu)

**

Tất cả các pháp hữu vi hiện hữu đều thành lập từ các nguyên nhân và các duyên; các nguyên nhân tạo thành các duyên, các duyên tạo thành các nguyên nhân: chúng tương trợ lẫn nhau. Kẻ ngu không hiểu điều này.

"All composites exist proceeding from causes and conditions; causes make conditions, and conditions, causes: they support each other. The ignorant do not understand this."

(The Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion. Kinh Phổ Diệu. Vol 1, p. 263)

--------------------------------------

Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận.

Candrakirti. Prasannapada. Lucid Expostion of the Middle Way.

Nếu có một hạt giống, có một mầm, tuy hạt giống không là mầm, cũng không là một cái khác hoàn toàn. Đây là lý do tại sao bản chất của các sự vật cũng không là đoạn diệt, cũng không là thường hằng.

It is said in the Lalitavistara: 'If there is a seed, there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal. (p. 185)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10548)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6106)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9380)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6440)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6006)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7514)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7336)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5224)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8119)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5943)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9657)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7426)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7459)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6247)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5328)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5879)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5682)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5723)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4102)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7539)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5734)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21962)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7113)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5055)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6462)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5836)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5026)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7073)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6064)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5589)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5904)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6031)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6857)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6449)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6096)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6517)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6212)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6404)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5632)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6932)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4575)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7802)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6067)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7321)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7749)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5516)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5166)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5701)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5556)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5536)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5031)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4297)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6068)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5649)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6302)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8540)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5266)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant