Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Niệm Thế Giới Địa Ngục

19 Tháng Mười Hai 202017:52(Xem: 2817)
Quan Niệm Thế Giới Địa Ngục
QUAN NIỆM THẾ GIỚI ĐỊA NGỤC
Tác giảThích Thắng Hoan

 

Quan Niem Ve The Gioi Dia Nguc

Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ. Một nhà truyền giáo đạo Phật mà không tin có thế giới địa ngục thì người đó phản bội lại với Phật Giáo và muốn đưa vấn đề này lên trên bình diện thực tại là một vấn đề khó khăn nhưng không phải là không được. Hôm nay,chúng ta xét nghiệm qua các tư liệu của Phật giáo:

 

1.-Bắt đầu chúng ta xét nghiệm qua các Kinh Luận: Các Kinh Luận đại khái như, Kinh Địa Tạng, KinhVu Lan Bồn, Kinh Trường Bộ, Luận Thuận Chánh Lý..v..v.....Muốn xét nghiệm những Kinh Luận này, trước hết chúng ta phải duyệt qua quá trình lịch sử của thời đại; thời đại thứ nhất, kể từ thời kỳ Đức Phật Thích Ca ra đời trở về trước được gọi là thời đại Thần Thông độc tôn, thời đại thứ hai, kể từ thời kỳ vào khoảng 2000 năm sau Phật nhập diệtthời đại Võ Lâm độc tôn, thời đại thứ ba là thời kỳ hiện đại được gọi là thời đại Khoa Học độc tôn.Chúng ta đang ở thờ đại khoa học độc tôn, nếu nhìn lại trở về trước vào thời đại thần thông và võ lâm độc tôn thì chỉ nhìn vào với đôi mắt huyền thoại, nhưng không nhìn vào với đôi mắt thực tế. Điển hình như gần đây hơn, vào năm 1963, đối với sự kiện“Trái Tim Bất Diệt”của Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn ở miền namViệt Nam, các vị sanh sau năm1975 đều cho đó là huyền thoại, không kiểm chứng được, nhưng còn những người sống vào thời kỳ đó, đã chứng kiến sự kiện đây đều xác nhận cho là thực tại; sự kiện Trái Tim Bất Diệt nếu là huyền thoại thì chánh phủ Hoa Kỳ không bỏ rơi chánh phủ Ngô Đình Diệm. Còn thời đại Võ Lâm Độc Tônthời đại người học võ phải thực hiện ba giai đoạn là đánh nhanh, nhảy cao và phi hành. Ba giai đoạn này của võ lâm, người học võ ai cũng đều biết, ở đây không cần bàn kỹ, vì nó không phải là chủ đề chính trong đề tài muốn nói. Chủ đề chính trong đề tài là những dữ kiện để chứng minhthế giới địa ngục hay không có. Để làm sáng tỏ thế giới địa ngục, chúng ta phải khảo sát qua những dữ kiện thần thông.

 

*- Một sự kiện thứ nhất là thời kỳ đức Phật Thích Ca ra đời vào thời đại thần thông độc tôn; theo sử liệu, người nào không có thần thông là người đó không có khả năng lãnh đạo, như bên Bà La Môn Giáo, hai vị lãnh tụ hai giáo phái là A La Lam (Alàrà-Kàlama) và Uất Đa Ma Tử (Uddaka-Ràmaputta), hai vị này đều chứng Ngũ Thông; còn bên Phật Giáo được kể đến nhiều nhất là hai vị Xá Lợi Phất (Sariputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna), hai vị này trước khi theo Phật Giáo là hai lãnh tụ thuộc hai giáo phái đạo thờ thần lửa, dưới trướng của hai vị này mỗi vị gồm có 500 đệ tử, hai vị này cũng đều chứng Ngũ Thông. Ngũ Thông gồm có: Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Thần Túc Thông, Túc Mạng ThôngTha Tâm Thông, riêng đức Phật Thích Ca chỉ hơn họ một thông là Lậu Tận Thông, ở đây chỉ nói đến dữ kiện mà không cần phải giải nghĩa.Theo lịch sử PhậtGiáo, đức Phật Thích Ca muốn độ ông em một cha khác mẹ là Nan Đà, vì ông này đam mê vợ quá mức, đầu tiên Phật dùng Thần Thông Lậu Tận dẫn ông lên Trời Đao Lợi vừa thăm mẹ là Hoàng Hậu Ma Da (Maya), vừa cho ông thấy mấycô tiên nữ ở đây đẹp hơn vợ của ông, kế đến Phật dẫn ông xuống cõi địa ngục để chứng kiến cảnh hành hạ của người dân ở dưới, sau khi thấy hai cảnh tượng này, ông Nan Đà mới chịu xuất gia theo Phật.

 

*-Một sự kiện thứ hai là đức Phật dùng thần thông để độ ông bà vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) nước Ma Kiệt Đà (Magadha) ở trong ngục; sự kiện này như thế nào, đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo, ngài muốn chọn một nơi an toàn nhất để làm trung tâm phát huy tư tưởng của mình, ai cũng đều biết tư tưởng của ngài là đả phá giai cấpnô lệ, Ngài được vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà hết mình ủng hộ, đức Phật chọn Tịnh Xá Trúc Lâm làm trung tâm phát huy tư tưởng của Ngài và được hai ông bà vua Tần Bà Sa La đứng ra bảo trợ, cho nên trong thời gian đức Phật trụ tại nước này rất bình an không bị ai đến đánh phá chống đối; Thái tử A Xà Thế (Ajàtasattu) con của Vua Tần Bà Sa La, khi lớn lên liền cướp ngôi của vua cha và bắt hai ông bà bỏ tù cho chết đói, trong khi đó, đức Phật Thích Ca nghĩ tình công ơn của vua bảo trợ trong thời gian Ngài trụ ở nước Ma Kiệt Đà, đức Phật liền phái đức Mục Kiền Liên lén bay vào trong ngục không cho ai biết để hướng dẫn ông bà niệm Phật A Di Đà tu gieo duyên, đồng thời đức Phật sử dụng Thần Thông Lậu Tận dùng hào quang thâu nhỏ lại thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà đang thuyết pháp đem hiện rõ trong ngục để hai ông bà đặt trọn niềm tin hướng về tu tập.

 

Hơn nữa, đây còn là một sự kiện đặc biệt chuyển biến lạ, bà hoàng hậuVi Đề Hy (Videhi), mẹ của thái tử A Xà Thế, được con nghịch tử thả ra, lẽ dĩ nhiên vua Tần Bà Sa La nhất định phải chết trong ngục. Khi bà hoàng hậu Vi Đề Hy được thả tự do, bà liền đến yết kiến đức Phật Thích Ca cầu xin Phật trình bày rõ về cõi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà đang làm giáo chủ, đức Phật liền giảng Kinh Tiểu Bổn A Di Đà để cho bà và đại chúng cùng nghe, tiếp theo ở các đạo tràng khác, đức Phật cũng giảng Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, cùng các kinh quan hệ với Tịnh Độ cho bà và đại chúng cùng nghe.Từ đó tư tưởng Tịnh Độ được nằm trong kho tàng Kinh Tạng của Phật Giáo.

 

      Sau khi đức Phật giảng kinh A Di Đà xong, bà hoàng hậu Vi Đề Hy căn cứ theo tinh thần của Kinh A Di Đà đứng ra vận động thành lập phong trào tu tịnh độ niệm Phật A Di Đà do bà lãnh đạo qua sự bảo trợ của đức Phật Thích Ca, phong trào này được rất đông dân chún hưởng ứng tham dự, trong đó bao gồm cả giai cấp Phệ Xá, Thủ Đà Lanô lệ, vì phong trào lớn mạnh quá đông, để có tổ chức, bà hoàng hậu Vi Đề Hy ra lệnh tất cả các thành viên trong tổ chức phải mặc y màu trắngđể biểu tượng, cũng như các vị tỳ kheo xuất gia đều mặc y màu vàng để biểu tượng; y màu trắng của tổ chức là bà hoàng hậu Vi Đề Hy căn cứ theo ý nghĩa câu chuyện của bà hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy Bồ Tát Hộ Minh cởi con voi trắng sáu ngà từ trên trời bay xuống khai hông bên hữu của bà chun vào, và từ đó bà hoàng hậu Ma Da sanh ra thái tử Tất Đạt Đa, câu chuyện màu trắng ở đây của con voi trắng sáu ngà là tượng trưng cho thanh tịnhgiải thoát của Bồ Tát, còn y màu trắng của bà hoàng hậu Vi Đề Hy chủ trương là tượng trưng cho sự trong sạchgiải thoát nô lệ. Phong trào này về sau được đức Phật chuyển thành phong trào Ưu Bà TắcƯu Bà Di nhằm để hộ trì Phật Pháp. Có thể khẳng định tông phái Tịnh Độ không phải có từ Trung Hoa do ngài Tuệ Viễn chủ trương mà tông phái này đã có từ Ấn Độ vào thời kỳ đức Phật Thích Ca còn tại thế do bà hoàng hậu Vi Đề Hy lãnh đạo.

 

      *- Một sự kiện thứ ba là đức Phật sử dụng thần thông tạo dựng năm đàn Lăng Nghiêm để hỗ trợ và sai Bồ Tát Văn Thù đem chú Lăng Nghiêm đến hoá giải thần chú Ta Tỳ La Phạm Thiên của dâm nữ Ma Đăng Già để cứu ông A Nan; từ câu chuyện dâm nữ Ma Đăng Già đó mới có Kinh Lăng Nghiêm nằm trong kho tàng Kinh Tạng của Phật Giáo.

 

Nhìn  qua  ba sự kiện của đức Phật Thích Ca sử dụng Thần Thông để hoá độ chúng sanh trong thời đó cũng đủ chứng minh đức Phật đã chứng Thần Thông, nhưng vì đức Phật không cho các đệ tử sử dụng thần thông để truyền giáo (điều này được thấy trong truyện Tăng Đồ Nhà Phật), cho nên cũng từ đó kỷ năng đào luyện thần thông đã mất chân truyền trong dân gian và đã chìm sâu quên lãng lâu đời trong xã hội. Nhờ chứng đắc thần thông, đức Phật đã sử dụng kỷ thuật truyền giáo vô cùng độc đáo ở chỗ là Ngài sử dụng mà không ai biết. Đức Phật sử dụng kỷ thuật thuyết pháp có hai cách: Đạo Tràng Thuyết PhápThiền Định Thuyết Pháp.

 

Đạo Tràng Thuyết Phápđức Phật thuyết pháp nơi đạo tràng bằng tiếng Ấn Độ gồm có hội chúng khoảng 1250 đệ tử và các vua chúa, các quần thần, các dân chúng đều tham dự; đồng thời ngài cũng dùngThiền Định Thuyết Phápsử dụng Thần Thông Lậu Tận để chuyển ngữ cho các cõi khác đều cùng nghe. Thí dụ như chúng ta thuyết pháp tại chùa cho các Phật tử của chùa nghe, đó gọi là Đạo Tràng Thuyết Pháp, đồng thời chúng ta cũng dùng On Line để phổ biến cho người Việt Nam khắp nơi trên thế giới đều cùng được nghe, đó thí dụThiền Định Thuyết Pháp; Điều đặc biệt hơn, đức Phật chẳng những dùng thiền định thuyết pháp mà còn sử dụngThần Thông Lậu Tận để chuyển ngữ, thí dụ như nơi Trung Tâm Liên Hiệp Quốc, các quốc gia trên thế giới đến tham dự, trong đó có mặt người Việt Nam,n gười Việt Nam phát biểu bằng tiếngViệt Nam, nhưng người các quốc gia khác đều nghe được qua tiếng của họ, đấy thí dụchuyển ngữ bằng Thần Thông Lậu Tận. Vấn đề này được thấy nơi Phẩm Đại Hội số 19 trong Trường Bộ Kinh.

 

2.- Giờ đây bước sang lãnh vực thế giới Địa Ngục. Muốn rõ thế giới Địa Ngục như thế nào, chúng ta phải đọc lại Kinh Địa Tạng. Kinh Địa Tạngkinh điển nhằm diễn tả toàn bộ thế giới Địa Ngục, đồng thời giới thiệu Bồ Tát Địa Tạng, người làm giáo chủ cõi U Minh mà tất cả Phật tử ai cũng đều biết nội dung của Kinh Địa Tạng này. Ngoài ra còn cóKinh Vu Lan cũng nói về thế giới Địa Ngục là nơi mà ngài Mục Kiền Liên xuống nơi đó để cứu mẹ.Ở đâychúng ta chỉ cần tìm hiểu về xuất xứ của bộ kinh này và xác nhận bộ kinh này chính là của đức Phật Thích Ca thuyết pháp thì từ đó chúng ta mới tin tưởng thế giới Địa Ngục là có thật.

 

      Qua những dữ kiện vừa trình bày ở trên chứng tỏ đức Phật Thích Ca là người đã chứngThần Thông và cũng là người thường sử dụng hai cách thuyết pháp: thiền địnhđạo tràng. Thế giới Đao Lợi là một trong những thế giới trong nội tâm A Lại Dađức Phật Thích Ca xuất thần lên thế giới đó bằng Đại Định Kiên Cố mà người đời thường gọi là xuất hồn, Ngài bay lên đó trong ba tháng để thuyết kinh Địa Tạng cho mẹ và các vua trời cùng nghe; trường hợp này cũng giống như chúng ta ngủ mê một giấc mơ dài thấy mình bay về Việt Nam thăm bà con ( xuất hồn) và cùng họ đi tham quan các nơi, các cảnh đâyđã có đầy đủ trong nội tâm A Lại Da của chúng ta, chúng ta khi thức giấc (tỉnh giấc) vẫn nhớ lại rành mạch không thiếu sót; hiện tượng này cũng giống như đức Phật Thích Ca sau khi ngài giảng Kinh Địa Tạng xong, trở về thế giới thực tại nơi Ấn Độ, ngài giảng lại cho các đệ tử  trong đạo tràng cùng nghe và đại chúng ghi lại những điều đức Phật giảng trên Cung Trời Đao Lợi, về sau được kết thành bộ kinh gọi là Kinh Địa Tạng và cũng được nằm trong danh bộ Tạng Kinh. Sự kiện trên thực sự cũng đủ chứng minh là có thế giới Địa Ngục và cũng nói lên được là có Bồ Tát Địa Tạng đang làm giáo chủ cõi U Minh, cũng giống như đức Phật A Di Đà hiện đang làm giáo chủ nơi thế giới Cực Lạc phương Tây.

 

3.- Tiếp theo chúng ta nhìn qua lăng kính khác để tìm hiểu thế giới Địa Ngục. Cổ đức thường nói ‘Dương gian âm phủ đồng nhất lý,’ nghĩa là cõi dương và cõi âm, nguyên lý đều giống nhau (đồng nhất). Dương gian là chỉ cho thế gian cõi dương (thế gian chịu ảnh hưởng mặt trời) và âm phủ là chỉ cho thế giới cõi âm (thế giới không chịu ảnh hưởng mặttrăng). Theo DuyThứcHọc, thế giới cõi dương là chỉ cho thế giới ngoại cảnh (cảnh giới hiện ra bên ngoài), thế giới cõi âm là chỉ cho thế giới trong nội tâm A Lại Da (Tạng Thức). Dương gian âm phủ đồng nhất lý, chính là ám chỉ cho thế gian này có những cảnh giới nào mà chúng ta đã tham quan qua đều có mặt đầy đủ trong nội tâm A Lại Da của chúng ta, thí dụ chúng ta tham quan thành phố Hà Nội, thành phố Huế, thành phố Sài Gòn, thành phố Nam Hàn, thành phố San Jose ở nước Hoa Kỳ..v..v..... tất cả những thành phố đó đều có mặt trong nội tâm A lại Da của chúng ta, đây là nói lên ý nghĩa dương gian âm phủ đồng nhất lý.

 

Cũng từ ý nghĩa này, chúng taý niệm rằng, thế gian có những trại tù để nhốt những kẻ phạm tội thì nơi thế giới cõi âm cũng có những địa ngục để đối trị những kẻ tội ác; thế gian này có những kẻ du đãng cõi dương thì thế giới cõi âm cũng có ngạ quỷ du đãng cô hồn; thế gian này có những loại súc sanh thì thế giới cõi âm cũng có những loại súc sanh giống như thế.

 

4.- Trở lại vấn đề thế giới Địa Ngục, thế giới Địa Ngục là nơi để đối trị tánh tội của chúng sanh, còn trại tù ở thế gian là nơi chỉ đối trị tướng tội của chúng sanh; tướng tội là những tội lỗi do lời nói và hành động gây tạo, còn gọi là tội lỗi của thân nghiệpkhẩu nghiệp; riêng tánh tội là những tội lỗi do tâm ý chủ mưu xúi dục, còn gọi là tội lỗi của ý nghiệp. Con người có thể thoát khỏi trại tù nơi thế gian về tướng tội của thân nghiệpkhẩu nghiệp, nhưng không thể toát khỏi trại tù của Địa Ngục nơi nội tâm về tánh tội của ý nghiệp.

 

a/- Cơ sở của thế giới Địa Ngục. Thế giới Địa Ngụcthế giới của nội tâm không phải là thế giới của ngoại cảnh và cũng không ảnh hưởng chút gì nơi thế giới ngoại cảnh, trường hợp này cũng giống như chúng ta đang nằm mơ, tâm chúng ta chun vào thế giới mộng mơ đi du ngoạn, chúng ta lái xe chở bạn đi khắp thành phố trong mơ, trong lúc đó, chúng ta lái xe không đụng giường của chúng ta đang ngủ, không đụng nhà của chúng ta ở, không đụng thành phố của chúng ta đang sống, khi tỉnh lại chúng ta mới biết mình đang nằm mơ.

 

Cũng trong tinh thần dương gian âm phủ đồng nhất lý, ngược lại âm phủ có những hiện tượng gì thì trên dương gian cũng có những hiện tượng đó, như có những chúng sanh chịu ảnh hưởng mặt trời, nghĩa là họ sống nhờ ánh sáng mặt trời thì mới thấy đường, mới sinh hoạt và khi về đêm thì họ không thấy đường, họ không sinh hoạt và họ đi ngủ, cụ thể như con người..v..v....chỉ sinh hoạt ban ngày, không sinh hoạt ban đêm, đây chính là nguyên lý; có những loại chúng sanh chỉ sinh hoạt về ban đêm và có ảnh hưởng với mặt trăng, như về loài súc vật gồm có: loài dơi, loài chim quốc, loài cú mèo..v..v....; 

 

b/- Còn như về loài ngạ quỷ, những loại này do nghiệp báo tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn, keo kiết cực thịnh tạo nên, họ cũng sống về ban đêm và cũng ảnh hưởng mặt trăng giống như các loài súc vật nói trên. Theo Thuận Chánh Lý Luận, quyển 21 giải thích: vị trí cảnh giới của họ rất rộng lớn trải khắp nhân gian, chúng sanh ngạ quỷ có nhiều loại như:

-        Quỷ Vô Tài, là những loại quỹ và miệng của chúng nó có đầy lửa, có loại miệng của chúng nó nhỏ như kim, có loại miệng của chúng nó bay mùi hôi thúi.

-        Quỷ Thiển Tài, là những loài quỷ có long nhọn như kim, cól ông bay mùi hôi, có long làm cho chúng nó bị bệnh hoạn.

-        Quỷ Đa Tài, là những loài quỷ chuyên môn đi góp nhặt, tích lủy tài vật bằng mọi hình thức. Quỷ Đa Tài là danh từ chung, trong đó gồm có ba loại:

      + Khí Quỷ, là những loại quỷ chuyên môn đi nhận tài vật cúng bái của

người đời. Những loài quỷ này, người đời thường gọi là Ma, nhất là

chúng nó thường thân cận với bà con để kiếm ăn.

      + Thất Quỷ, là những loại quỷ chuyên môn đi lấy những tài vật bị thất

lạc của loài người bỏ quên và khiến loài người không thể tìm lại được.

      + Đại Khí Quỷ: là những loại quỷ vô cùng hung bạo chuyên môn giết

người để hút máu, để cướp đoạt tài vật..v..v..., nhất là giết người bắt

làm nô lệphục dịch cho chúng. Những loại quỷ này gồm có: Quỷ

Dạ Xoa, Quỷ La Sát, Quỷ Tỳ Xá..v..v...

Để chứng minh, hiện nay, nơi thành phố Orange County và thành phố San Jose, có hai nhà sang trọng, trong nhà có ba bốn phòng bỏ trống từ lâu không ai dám mướn, vì trong hai nhà đó có ma, ban đêm thường hiện hình đe doạ chủ mướn nhà, khiến họ phải bỏ nhà đi mướn nơi khác.

c/- Nhìn lại lần nữa về vấn đề thế giới Địa Ngục.Vị trí của những thế giới này, theo như Kinh Địa Tạng ở rải rác khắp trong lòng núi Thiết Vi nơi Nam Thiệm Bộ Châu, cũng gọi là Nam Diêm Phù Đề, những người sống trong đó không biết gì về ánh sáng mặt trờimặt trăng, cũng giống như loài cá sống sâu dưới đáy biển và chỗ đó không có chút nào ánh sáng mặt trời mặt trăng, chúng nó nếu lên tới mặt biển là không thấy đường và bong bóng của nó liền bị bể mà chết, khác hơn loài rùa..v..v...chúng nó sống giao thoa với thế giới loài ngườithế giới loài cá, nghĩa là chúng nó lên bờ sống cũng được và xuống dưới nước sống cũng được, cũng có chỗ gọi thế giới của loài rùa là Trung Giới. Cho nên thế giới Địa Ngục cũng được gọi là thế giới U MinhBồ Tát làm giáo chủ thế giới đó gọi là: U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát.

5.-Tóm lại, Kinh Địa Tạngbộ kinh có thật của chính đức Phật Thích Ca thuyết pháp tại cung trời Đao Lợi để giới thiệu cho mẹ và các vị vua trời nói trên. Bộ Kinh này được đức Phật giảng lại cho đại chúng lúc bấy giờ nghe và từ đó được kết tập thành một trong những Kinh Tạng. Tiếp theo có thể khẳng định thế giới Địa Ngụcthế giới có thật qua sự chứng minh của Kinh Địa Tạng, của Kinh Vu Lan và cũng có thật qua những dữ kiện vừa trình bày trên; thế giới Địa Ngục nhất định phải có, chính là trại tù khổng lồ của tâm linh nhằm để đối trị những tội lỗi về ý nghiệp của chúng sanh; chúng sanh tù tội mặc dù thoát khỏi trại tù của thế gian, nhưng không thể thoát khỏi trại tù Địa Ngục của tâm linh.

 

Sáng tác xong, ngày 24.09. 2019

Chùa Phật Quang

Trung Tâm phiên dịchsáng tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7356)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4580)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7353)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2973)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12225)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4004)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4231)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3692)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5072)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6697)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4014)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4131)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5348)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4540)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3936)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4398)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5397)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3846)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4648)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4215)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6121)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4613)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4198)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4837)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3657)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4056)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4596)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5294)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4304)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4500)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4609)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7233)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5217)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4602)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4165)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4723)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4886)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5496)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5626)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5826)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant