Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

21 Tháng Sáu 202119:08(Xem: 2896)
Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

Nguyễn Thế Đăng

doi song tu bi

 

Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật. Để hiểu sự nhập Đại Niết bàn, chúng ta cần ôn lại định nghĩa của Kinh về Phật là gì để biết Phật nhập Đại Niết bàn là thế nào. Trong những phẩm đầu tiên của kinh, Phật được định nghĩa là Pháp thânpháp tánh:

Phật dạy: Y theo pháp ấy tức là Đại Bát Niết bàn của Như Lai. Tất cả Phật pháp tức là Pháp tánh, Pháp tánh ấy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thường trụ không biến đổi. Nếu ai bảo rằng Như Lai vô thường, người này không biết không thấy pháp tánh…

Nếu rõ biết Như Lai tức là Pháp thân, đó là chân trí nên phải y chỉ. Nếu thấy thân phương tiện của Như Lai mà nói rằng thân ấy là thuộc về sự chi phối bởi ấm, giới, nhập, do ăn uống mà được nuôi lớn, nhận thức này là thức, chẳng nên y theo.

Nếu nói Như Lai thường trụ không biến đổi, đây là lời trọn nghĩa rốt ráo. Nếu nói Như Lai nhập Niết bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời không trọn nghĩa rốt ráo. Nếu nói Như Lai nhập pháp tánh, đây là lời trọn nghĩa rốt ráo” (phẩm Tứ Y, phẩm Như Lai tánh).

Như vậy, nhập Niết bàn của Phật là sự rút lui Hóa thân vào trong Pháp thân, trong pháp tánh, trong Đại Bát Niết bàn, trong Phật tánh. Nhập Niết bàn, chữ dùng rất thông dụng, có nghĩa là chấm dứt Ứng thân hay Hóa thân (Ứng tận) để rút về, trở lại Pháp thân (Hoàn nguyên) như phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên nói. Điều này được Đức Phật dạy:

Đại chúng ở trong biển lớn sanh tử phải siêng năng tu hành cho được tâm thanh tịnh, chớ để mất chánh niệm, chánh huệ, phải gấp cầu chánh trí để mau thoát khỏi các cõi. Nếu thọ thân trong ba cõi thì bị khổ luân hồi không bờ mé, vô minh là ông chủ, ân áiMa vương, sai khiến thân tâm như tôi tớ, duyên khắp các cảnh giới, tạo nghiệp sanh tử, tham sân si niệm niệm làm hại, từ vô lượng kiếp đến nay thường thọ lấy khổ não. Có người trí nào mà chẳng đi ngược lại nguồn sanh tử này.

Đại chúng nên biết rằng từ nhiều kiếp đến nay ta đã nhập Đại Niết bàn, không còn có ấm, giới, nhập, mà đã dứt hẳn các cõi, thường ở trong Bảo tạng Kim cương thường lạc ngã tịnh. Hôm nay ta ở nơi này thị hiện lực phương tiện chẳng thể nghĩ bàn mà nhập Đại Niết bàn theo như pháp thế gian. Đó là ta muốn cho chúng sanhbiết thân như chớp nhoáng, mà lại sanh tâm luyến mộ, dòng sanh tử mạnh mẽ chảy xiết rất nhanh, các hành luân chuyển cũng giống như vậy.

Như Lai nhập Niết bàn là rất sâu, rất sâu, không thể nghĩ bàn. Đó là cảnh giới của chư Phật, Bồ tát, chẳng phải chư Thanh Văn, Duyên Giác biết được” (phẩm Kiều Trần Như).

Như vậy, Như Lai đã ở trong Đại Niết bàn, trong Bảo tạng Kim cương từ nhiều kiếp rất lâu xa, vậy mà nay nhập Niết bàn thì việc này chỉ là thị hiện. Đại Niết bàn hay Bảo tạng Kim cương thì vượt khỏi Niết bànsanh tử, vì là bản tánh của Niết bànsanh tử. Như Lai đã từ lâu ở trong Đại Niết bàn, và Đại Niết bàn thì không có nhập, không có xuất.

Thấy Phật tánh hoàn toàn rõ ràng để có thể hiểu sự nhập Niết bàn của Phật thì chỉ có chư Đại Bồ tát, chư Phật:

Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tánh được một ít phần, Như Lai thì thấy rõ ràng hoàn toàn. Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tánh như trong đêm tối thấy hình sắc. Như Lai thấy Phật tánh như giữa ban ngày thấy hình sắc. Chư Phật thấy bằng mắt Phật tánh như xem trái cây trong bàn tay.

Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh thấy rõ Phật tánh thì chẳng cần tu tập thánh đạo. Bồ tát Thập Trụ tu Tám thánh đạo còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!

Thiện nam tử! Các Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi tu tập thánh đạo đã trải qua vô lượng đời nên thấy rõ Phật tánh” (phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống)

 

Phật tánh được Đức Phật và các Đại Bồ tát giảng giải, bàn luận trong suốt bộ kinh Đại Bát Niết Bàn, và trong ba bài thuyết pháp cuối cùng của Đức Phật, trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, ngài đã tổng kết cái thấy biết Phật tánh của một vị Phật. Chúng ta cần học và chuyên cần làm theo, dù qua nhiều kiếp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định, từ Sơ thiền đến Phi phi tưởng xứ định và ngược lại, rồi bảo khắp đại chúng:

Ta dùng trí huệ Bát nhã sâu xa xem thấy ba cõi tất cả sáu đường chúng sanh, núi non, biển lớn, lục địa các loài. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh, không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu. Xưa nay bình đẳng, không có niệm tưởng cao thấp, không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không có thọ mạng, không sanh không khởi, không dứt không diệt, không phải thế gian không phải chẳng thế gian, Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, hai bên bình đẳngbình đẳng với tất cả các pháp.

(Bậc thấy biết như vậy thì) nhàn nhã, tĩnh lặng, không có chỗ ra sức, chỗ an trụ rốt ráo đều chẳng thể đắc, từ pháp vô trụ mà hiện làm như pháp tánh vô trụ, hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Pháp tướng như vậy, ai rõ biết thì gọi là người xuất thế, nếu chẳng biết như vậy gọi là bắt đầu sanh tử. Đại chúng các ông phải đoạn dứt vô minh, diệt chỗ bắt đầu của sanh tử”.

Thực tại xưa nay vốn thanh tịnh, bình đẳng, chưa từng có sanh tử gập ghềnh, nhấp nhô là các “niệm tưởng cao thấp” gây ra khổ đau. Tất cả là một vị tánh Không, không có sự phân biệt tạo ra khác biệt của các giác quan, ý thức, ta và chúng sanh, ta và thế giới: “không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không phải thế gian không phải chẳng thế gian…

Phật là bậc hoàn toàn không trụ:

Các bậc thánh nhân thì không đi, không đến, không trụ. Như Lai đã đoạn dứt những tướng đi, đến, trụ. Như hư không chẳng trụ mười phương, Như Lai cũng như vậy, chẳng trụ mười phương” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Có trụ bèn thấy có tướng, bậc Giác Ngộ không có chỗ trụ, đồng với “pháp tánh vô trụ”, nên hoàn toàn không có tướng: “Hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu”.

Niết bàn sanh tử điều chẳng thể đắc, cả hai bình đẳngbình đẳng với tất cả pháp”, tất cả pháp và Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, vì tất cả bình đẳng trong một vị tánh Không. Niết bànsanh tử bình đẳng vì cả hai cùng một bản tánh, hay có thể gọi là “bản tánh của sanh tửNiết bàn”.

Sở dĩba cõi, hai mươi lăm cõi hữu, bởi vì có vô minh phân biệt chia cắt thực tại thành vô số tướng, các tướng ấy tạo thành sanh tử vọng thấy. Muốn hết sanh tử, phải xóa hết vô minh. Xóa hết vô minh bằng cách xóa hết hoạt động phân biệt của vọng thức. Không phân biệt, tức không có vô minh, không có sanh tử. Không phân biệt tức là thức chuyển thành trí, vì thức vốn là trí.

Bậc thấy biết như vậy thì tâm hoàn toàn thể nhập với pháp tánh vô trụ, tức là tánh Không, thấy các pháp là vô trụ, do đó các việc làm lớn nhỏ đều là hiện làm, làm mà không làm gì cả, vì làm từ vô trụ đến vô trụ.

Vô minh, “chỗ bắt đầu của sanh tử” theo Luận Đại Thừa Khởi Tín, là “một niệm bất giác”. Một niệm bất giác là một niệm xa lìa pháp tánh vô trụ, xa lìa bản tánh của tâm, và lạc vào trong các tưởng phân biệt tạo thành các tướng phân biệt. Các tướng phân biệt, đó là sanh tử, do các tưởng tạo thành. Và các tưởng là do lạc khỏi bản tâm, tức pháp tánh vô trụ vốn hiện hữu xưa nay, vốn thường trụ xưa nay, chưa từng dời khỏi một ly một tấc.

Người thực hành được như vậy, an trụ thuần thục trong bản tâm vô trụ thì thấy tất cả mọi hiện tướngbản tâm, mà bản tâm thì vô trụ nên tất cả hiện tướng đều vô trụ. Đây là sự giải thoát khỏi vô minh, sự giải thoát vốn xưa nay như vậy vì sanh tử hư vọng chưa từng có.

Thực hành là lúc ban đầu có một niềm tin rằng chúng ta đang có phần nào cái thấy Phật tánh này, vì như Đức Phật dạy, “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Khi đã tin, cảm nhận, tiếp xúc phần nào cái Thấy này, chúng ta Thiền định, nghĩa là không xa lìa cái thấy ấy, niệm niệm duy trì, hộ trì, giữ gìn, bảo nhậm cái thấy ấy. Khi thực hành duy trì cái thấy, nó sẽ dần dần mở ra chiều kích vô hạn, chiều kích Vô Biên Thân của nó. Thiền định phần nhiều là công việc làm của tâm ý. Chúng ta bước đến Hạnh, tức là duy trì cái thấy trong tất cả hiện hữu của chúng ta, trong mắt tai mũi lưỡi thân ý, trong các đối tượng của sáu giác quan.

Cái thấy Phật tánh là cái thấy Phật. Khi toàn bộ con người và những khả năng của nó đều được bao trùm trong cái thấy Phật này, thì “tất cả là Phật”.

Lần thứ hai, Đức Phật thuyết pháp về cái thấy biết của Phật như thế này:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói những lời ấy xong lại nhập siêu thiền: từ Sơ thiền xuất lại nhập các thiền cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, rồi đi ngược lại…

Sau khi Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập siêu thiền như vậy lại bảo đại chúng:

Ta dùng Ma ha Bát nhã xem thấy khắp ba cõi: tất cả hữu tình, vô tình, tất cả người và pháp trọn đều rốt ráo không có trói buộc, không có giải thoát, không có chủ, không nương dựa, không thể nắm giữ, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, xưa nay vốn thanh tịnh, không có dơ nhiễm, không có phiền não, đồng như hư không, chẳng phải bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng, hết sạch những động niệm, tư tưởng, tâm vĩnh viễn dứt bặt.

Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết bàn. Thật sự thấy pháp đây thì gọi là giải thoát. Người phàm phu không biết gọi là vô minh”.

Tất cả ba cõi và những gì hiện hữu trong đó, loài hữu tình và sự vật vô tình, trọn đều rốt ráo không có trói buộc, không có giải thoát, không có chủ, không nương dựa, không thể nắm giữ, chẳng ra chẳng vào… vì tất cả chưa từng lìa tánh Không và tất cả đã là, đang là, mãi mãi sẽ là tánh Không.

Chính vì chưa từng lìa tánh Không, mãi mãitánh Không, nên chưa từng có một tướng, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đồng như hư không. Chưa từng có một tướng cho nên chưa từng có một tâm, một động niệm, một tư tưởng. Tất cả sanh tử hoàn nguyên vào Phật tánh Đại Niết bàn đối với một bậc Giác Ngộ. Nhưng với chúng sanh, vì họ vẫn giữ cái thấy sai lầm của họ, nên sanh tử của họ vẫn như họ thấy, không bị hủy hoại. Tánh Không này là Chân Không - Diệu Hữu: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Không phải là không có sắc, mà sắc do cái thấy vô minh phân biệt hoàn nguyên lại bản tánh của chúng là Chân Không Phật tánh, tức là “tánh không hai” của sắc và Không.

Như các thí dụ trong Kinh tất cả mọi món đồ làm bằng vàng đều là vàng. Tất cả mọi hình bóng trong gương đều là gương. Tất cả mọi khởi tâm động niệm, mọi nói năng đi đứng… đều là Phật tánh.

Đây là chỗ trong phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu gọi là Kim cương tam muội.

Thiện nam tử! Vì tất cả pháp vốn không có tướng. Bồ tát này nhờ năng lực Kim cương tam muội này thấy tất cả pháp là Như, vốn vô tướng”.

Thấy các pháp là vô tướng, là Như, là Phật tánh, là Pháp thânthuần thục trong đó, đây là tất cả con đường Phật giáo, con đường thấy Phật tánh hoàn toàn rốt ráo của một bậc giác ngộ.

 

Nói xong, Đức Phật lại nhập siêu thiền: xuất sơ thiền nhập tam thiền cho đến nhập Diệt tận định. Từ diệt tận định xuất cho đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập siêu thiền xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng:

Ta dùng Phật nhãn xem thấy khắp ba cõi, tất cả các pháp, cội nguồn vô minh, tánh vốn giải thoát, tìm khắp mười phương rốt ráo chẳng thể được. Vì cội gốc đã Không nên tất cả cành lá của nó thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát cho nên đến già, chết đều được giải thoát. Do đây nên nay ta an trụ thường tịch diệt quang gọi là Đại Niết bàn”.

Ba cõi, tất cả các pháp do từ cội nguồn vô minh mà có. Vô minh là “một niệm bất giác” khiến tách lìa khỏi Phật tánh, cho mình là một hiện hữu riêng biệt gọi là “tôi” và khi có tôi bèn có “cái của tôi”. Cuộc sống của người bình thường là sự xây đắp thêm kiên cố cho cái tôi và cái của tôi này, bằng ý thức, các thức giác quan và đủ các thứ phiền não.

Khi đã là một người thì một niệm, một ý tưởng nào khởi lên cũng là “một niệm bất giác” cắt lìa, chia cách chúng ta với thực tại bổn nguyên là Phật tánh. Một niệm bất giác khởi lên là có sự phân biệt tạo thành tướng ta, tướng người, tướng sự vật, tướng thế giới. Các tướng ấy tạo thành sanh tử chia cắt trong Phật tánh vốn là “Một Tướng, Một Tâm”.

Vô minh là kẻ nứt trong thực tại Phật tánh, kẻ nứt ấy là sự phân biệt đầu tiên về một cái ta chưa thành hình. Hành là sự chuyển động trong kẻ nứt ấy tạo thành thức. Thức sanh ra danh sắc, tức là thân tâm con người. Và những duyên sanh tiếp theo làm cho kẻ nứt vô minh càng ngày càng rộng ra và thêm cứng đặc, thêm vật chất hóa.

Một khởi niệm như thế bao gồm trong nó ít nhất là ba thành phần căn bản: vô minh, hành, và thức. Thế nên con đường Phật giáo là “tự tịnh tâm ý”, tịnh hóa sự phân biệt, chia cắt ở mức tiềm thể (vô minh) và hiện thể (hành, thức) để “hoàn nguyên” lại thực tại Phật tánh bổn nguyên. Do đó mọi pháp môn của Phật giáo chủ yếu làm việc trên những khởi niệm. Những khởi niệm là những nguyên liệu, những tài liệu để học hỏi và nhìn thấy Phật tánh.

Nhưng vô minh là cái sanh ra trên nền tảng Phật tánh vốn có sẳn. Vô minh cũng nằm trong Phật tánh, nghĩa là trong tánh Không, quang minhnăng lực. Vô minh, hành, thức chính là tánh Không, quang minhnăng lực. Thế nên, kinh nói:

Nếu nói vô minhnhân duyên sanh ra các hành, người phàm phu nghe bèn phân biệt sanh tưởng có hai pháp: minh và vô minh. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Nếu nói các hành là nhân duyên sanh ra thức, người phàm phu cho rằng có hai: hành và thức. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai ấy tức là thật tánh.

Tánh không hai này tức là Phật tánh vậy” (phẩm Như Lai tánh).

Vô minh, hành, thức là tánh không hai, là Phật tánh, là tánh Không nên vô minh, hành, thức là vô sanh. Vô minh, hành, thức là vô sanh nên vòng mười hai nhân duyênvô sanh, tất cả niệm tưởng và hình tướngvô sanh. “Cội nguồn vô minh, tất cả các pháp, tánh vốn giải thoát” vì vô minh và tất cả các pháp vốn là tánh Không, vốn là vô sanh vậy.

Vô minh, hành, thức là tánh không hai của minh và vô minh. Nói cách khác, vô minh chính là minh, là quang minh. Trong Phật tánh quang minh, niệm tưởng và hình tướng như phàm phu thấy chỉ là sự biểu lộ, hiện tướng của quang minh, chỉ là quang minh, nên tất cả vốn là giải thoát.

Vô minh, hành, thức cho đến lão tử là sự hóa hiện của năng lực bị giới hạn trong một cái tôi và cái của tôi. Khi phá vỡ giới hạn của cái tôi và cái của tôi, thì sự hóa hiện của cá nhân trở thành sự hóa hiện của Phật tánh toàn thể. Năng lực hóa hiện của Phật tánh là Không, Vô tướng, Vô tác, Bất động nên sự hóa hiện của tất cả các pháp là như huyễn, vì tất cả chỉ là Phật tánh.

Vì cội gốc vô minh đã Không nên cành lá của nó thảy đều giải thoát”: Các tướng hiện thấy vốn là giải thoát vì trong thật tướng của chúng, chúng là Vô tướng, là tánh Không. Chưa từng có vô minh nào tạo ra các tướng phân biệt sai khác để tạo thành sanh tử cả. Chưa từng có vô minh nào để biến quang minh thành các tướng. Chưa từng có vô minh nào để biến cái như huyễn thành các tướng có thật, được vật chất hóa.

Cả ba lần thuyết pháp đều nhấn mạnh đến Không, tánh Không. Nhưng như những phẩm trước đã nói, Không –Bất Không mới trọn nghĩa Phật tánh. Thế nên khi “cội gốc vô minh đã Không”, sanh tử đã Không thì không phải là không có gì hết, mà có Bất Không, tức là tất cả công đức. Công đức ấy kinh nói là “thường tịch diệt quang, gọi là Đại Niết bàn”. 

Suốt kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật và các Đại Bồ tát đã khai thị Pháp thân Phật (các kinh khác gọi là “Pháp thân của tất cả chư Phật”). Ngay từ những phẩm đầu, Đức Phật đã cho biết thân ngài mà mọi người đều thấy chỉ là Hóa thân, sự hóa hiện, thị hiện của Pháp thân vốn không sanh không diệt:

Này Ca Diếp! Như đề hồ, tánh nó thanh tịnh. Cũng vậy, Như Lai chẳng phải do cha mẹ hòa hiệp mà sanh, tánh Như Lai thanh tịnh, sở dĩ thị hiệncha mẹ là vì muốn hóa độ chúng sanh. Chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai cùng giải thoát không hai không khác” (phẩm Tứ Tướng - phẩm Như Lai tánh).

Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên này, Đức Phật với ba lần thuyết pháp sau cùng nói về Pháp thân trọn vẹn, và không phải như người bình thường hiểu là Ngài nhập Niết bàn nghĩa là “tắt mất hẳn”, mà là đưa Hóa thân trở lại Pháp thân. “Ứng tận” là chấm dứt sự thị hiện của Hóa thân hay Ứng thân, “hoàn nguyên” là đưa về, rút Hóa thân vào Pháp thân.

Pháp thân hay Phật tánh là cái mỗi người đều có, nhưng vì một lối sống sai lầm do vô minh phiền não mà không thấy, có lúc càng lạc xa. Chính xác hơn, không phải mỗi chúng sanh đều có Pháp thân Phật tánh, mà mỗi chúng sanh đều Pháp thân Phật tánh.

Sự tu hành theo kinh bắt đầu bằng niềm tin mỗi chúng ta chính là Pháp thân Phật tánh, và các pháp môn các Ba la mật là sự khai triển sự thấy biết cái Pháp thân Phật tánh vốn có sẳn ấy trong cuộc đời của mỗi người. Như thế, Nền tảng là Pháp thân Phật tánh, Con đườngPháp thân Phật tánh, và Quả là Pháp thân Phật tánh.

Đó là cái gọi là tu trên Quả, Quả thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12646)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12262)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11038)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10917)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11791)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13671)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11912)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11179)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12205)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12411)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20604)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12434)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12464)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11725)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11602)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22434)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13584)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29691)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11549)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16752)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12006)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16850)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12082)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17932)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12653)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13177)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14771)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22634)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10594)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14053)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13875)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13721)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13874)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13947)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14839)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13858)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18422)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22809)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15401)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17329)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22418)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14269)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12591)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11175)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17776)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13217)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18803)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17184)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13510)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12925)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14703)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14662)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15881)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13521)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27444)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13244)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16733)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21399)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant