Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Điểm Chân NhưPhật Tánh Trong Tác Phẩm Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu

04 Tháng Tám 202108:18(Xem: 2692)
Quan Điểm Chân Như – Phật Tánh Trong Tác Phẩm Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu
Quan Điểm Chân NhưPhật Tánh Trong Tác Phẩm
Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu

Thích Nữ
Trung Ý

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được. Có Phật tánh chỉ là tiền đề dẫn đến thành Phật, song để nhận ra và quay trở về với Phật tánh thì không phải ai cũng có thể làm được.

Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất. Không những là bậc chân tu ngộ đạo, Thiền sư còn có tài văn chương xuất chúng. Tất cả những tác phẩm của Ngài trước tác và để lại cho đến nay chỉ còn “Tham đồ hiển quyết”, tác phẩm kết tinh từ những hương thơm cỏ lạ, khoe sắc giữa vườn văn học Thiền tông Việt Nam.

Hành trạng của Thiền sư Viên Chiếu

Theo Thiền uyển tập anh, Thiền sư Viên Chiếu (圓照) (999-1091) họ Mai, tên Trực, người Long Đàm, Phúc Đường (nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội). Ngài là con người anh của Thái hậu Linh Cảm nhà Lý, ngay từ nhỏ đã thông minh hiếu học. Sau xuất giathọ giáo với Thiền sư Định Hương núi Ba Tiêu, rất tinh thông pháp Tam quán trong kinh Viên Giác, thâm đắc ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát, người đến học rất đông(1). Sau khi chứng đạo, Thiền sư trụ trì chùa Cát Tường tại Thăng Long. Tham đồ hiển quyết là một tác phẩm viết theo thể tài thoại đầu thiền ngữ. Tức là thiền sinh đặt ra câu hỏi về những vấn đề nan giải như chân như, Phật tánh, hay các vấn đề khác nữa. Tất cả được sư kiến giải bằng hình ảnh thi ca đơn giảnvô cùng thâm thúy.

Thiền sư Viên Chiếu vận dụng tinh tế những hiện tượng nghịch lý của cuộc sống hiện thực, nhằm đả thông sự trực ngộ của người hỏi. Ngài kéo tâm phóng đãng, bay bổng, miên viễn của người học đạo trở về với thực tại, nhìn sâu vào bản chất, bản thể tự tánh thanh tịnh của mỗi người. Thiền học của Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến “tâm”: “Chú trọng đến chữ tâm, khai thác tận cùng các yếu tố thuộc về tâm chứ không đơn thuần chỉ là tìm hiểu để khai thác mặt tâm lý xã hội” (2).

Thoại đầu thiền ngữ

Tư duy thiền học tức là lối tư duy thiên về trực cảm, trực giác tâm linh. Chính nhờ khả năng trực cảm ấy, con người trực ngộ bản thể của các pháp. Khi người học trò đặt câu hỏi: “Thanh thanh thúy trúc tận chân như. Như hà thị chân như dụng? (Xanh xanh trúc biếc thảy đều chân như. Thế nào là cái dụng của chân như?), Sư đáp:

赠君千里 远

笑 把 盛 茶

“Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất âu trà” (3).
(Tặng người nghìn dặm xa
Cười xách một bình trà).

Đôi khi việc học đạo không đòi hỏi những điều quá cao siêu, thần bí, mà chỉ là sự cảm nhận từ những việc đơn giản, nhẹ nhàng nhưng thật sâu sắc. Bản thể của vạn pháp được Thiền sư lý giải nhẹ nhàng như việc một người đi xa nghìn dặm được ân cần cười tặng một bình trà. Đối với người học trò, bản thể chân như có mặt trong tất cả khóm trúc xanh xanh kia, nhưng vẫn chưa hiểu thế nào là dụng của chân như. Dụng là khái niệm của Phật giáo Đại Thừa chỉ tác dụng giáo hóa thế gian.

Thiền sư Viên Chiếu giải quyết vấn đề bản thể chân như của các pháp một cách đơn giản nhưng vô cùng thiện xảo, hướng tâm người học trò trở lại với thế giới hiện thực. Chân như không ở đâu xa mà vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống, nơi hàng trúc xanh xanh kia. Điều này nói lên rằng trong mỗi con người đều có bản thể chân như thanh tịnh, chỉ những ai dụng công tu tập, quét sạch lớp bụi vô minh mới nhận ra. Dụng của chân như giống như một ấm trà vui vẻ tặng cho người đi đường xa, giúp thêm sức mạnh vượt qua khó khăn trên đường. Hành giả muốn cảm nhận tác dụng thật sự của chân như, cần có một công phu hành trì tu tập miên mật, sống với tâm thế tự tại an nhiên. Giống như việc người khách phương xa thưởng thức một tách trà, y bỏ qua những phân biệt đối đãi về loại trà hay cách thức pha trà, mới cảm nhận được trọn vẹn hương vị của nó. Vị Tăng lại hỏi: “Nhậm ma tức không lai hà ích?” (Thế nào là uổng công đến mà không ích gì?), Sư liền đáp rằng:

谁识东啊去。

途中载白头。

“Thùy thức Đông a khứ
Đồ trung tái bạch đầu” (4).
(Ai hay đi đến gò Đông
đầu mà vẫn ruỗi rong giữa đường).

Bên trên đã khai tâm trí của người học trò về bản thể của các pháp hiện hữu, dụng của chân như Phật tánh đều tồn tại trong mỗi người chứ không phải riêng cá nhân nào. Chân như là sẵn có trong mỗi chúng sanh, ai ai cũng có thể tánh thanh tịnh, điều này khiến người học trò cho đó là điều bình thường hiển nhiên, vậy mới nói là uổng công đến mà không lợi ích gì. Tuy nhiên, người ấy lại quên rằng không phải ai cũng có thể nhận ra sự có mặt của chơn tâm thường trụ nơi chính bản thân mình.

Thiền sư Viên Chiếu chuyên trì kinh Viên Giác, vì vậy quan niệm về bản thể chân như cũng có ảnh hưởng tư tưởng của bản kinh này. Bản thể trong kinh Viên Giác chính là Viên giác diệu tâm Như Lai: “Tất cả chúng sanhmọi vật huyễn hóa đều sanh từ Viên giác diệu tâm Như Lai. Ví như hoa đốm trong hư không từ hư không mà có, hoa đốm tuy diệt mà tánh hư không không hoại. Tâm huyễn của chúng sanh lại y nơi pháp huyễn mà diệt. Pháp huyễn tâm huyễn diệt hết thì tánh giác bất động” (5).

Như vậy, bản thể là cái bất động còn biểu hiện của sự vật hiện tượng trên thế giới này chỉ là tướng của bản thể mà thôi. Hình tướng phân biệt có thể khác nhau nhưng bản thể thì đều bình đẳng như nhau. Bản thểthanh tịnh, bình đẳng, bất động nhưng liệu rằng dễ dàng nhận biết như việc chính mình không biết người chủ của mình là ai, cũng như không nhận ra bản thể chân như thì dù có rong ruỗi đi tìm sự giải thoát đến bạc đầu vẫn không tìm ra. Người tham vấn cứ thế lại hỏi một câu khác: “Nhất thiết chúng sanh, giai ngôn thị Phật. Thử lý vị minh, thỉnh sư thùy thị” (Hết thảy chúng sanh, nói mình là Phật. Chưa thấu ngọn ngành, xin thầy dìu dắt). Sư đáp:

劝君且务农桑去。

莫学他人待兔劳。

“Khuyến quân thả vụ nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao” (6).
(Khuyên người gắng việc nông tang
Học người chờ thỏ bên đường uổng công)

Sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đã xác chứng rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, tức là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng thành Phật. Điều đó cho chúng ta một niềm tin mãnh liệt để bước trên con đường tu tập theo giáo lý Đức Phật đã dạy. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”. Như vậy, chúng ta không còn chút nghi ngờ gì nữa về Phật tánh sẵn có trong mỗi người, chỉ là Đức Phật đã nhận ragiác ngộ hoàn toàn còn chúng ta tuy sẵn có nhưng vì vô minh phiền não che lấp nên không thể hiển lộ được bản tánh giác ngộ ấy. Ý hết thảy chúng sanh đều nói mình là Phật có lẽ là nói đến Phật nhân trong mỗi con người chứ không phải Phật quả, vì từ nhân trở thành quả đòi hỏi phải trải qua quá trình công phu tu tập hành trì. Hay nói cách khác, tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật nhân, là hạt giống thiện lành, nếu biết tu tập theo đúng chánh đạo, hành đúng Chánh pháp, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, trở thành một vị Phật.

Thiền sư với kinh nghiệm chứng ngộ của mình đã khuyên học trò quay về làm những việc đồng áng thường nhật của nông phu. Ngài dùng điển tích rút từ “Thiên Ngũ đố” trong Hàn Phi Tử, kể về một người làm nông nước Tống gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác, nhưng cuối cùng vẫn không có con thỏ khác, ngược lại còn bị người nước Tống chê cười (7). Truyện ngụ ý rằng, chúng ta đừng phí sức trông chờ vào những sự ăn may, việc xảy ra một lần nên nghĩ sẽ luôn luôn diễn ra như thế nên trông chờ, đó là sự trông chờ hoài công.

Nắm bắt được tâm tư suy nghĩ của học trò, Thiền sư lo sợ đệ tử sẽ rơi vào tự mãn khi chấp vào câu nói “Hết thảy chúng sanh đều là Phật”, chưa chứng mà cho đã chứng sinh ra tâm lý ỷ lại, không cần tu tập, không cầu giải thoát. Cho nên Ngài mới khuyên hãy làm những việc bình thường với tâm sáng suốt tĩnh lặng, tức là “bình thường tâm thị đạo”. Đừng tìm kiếm Phật ở đâu xa xôi, Phật hiện hữu trong tâm mình, tâm thanh tịnh sáng suốt đó chính là tâm Phật. Dù làm những công việc đồng áng thường ngày trồng rau, hái trái nhưng với tâm không vọng động, không phiền não chấp trước thì đó là tâm chư Phật hiện hữu. Ngược lại, không chịu tinh tấn tu hành theo lời Phật dạy sao có thể tiến bước trên con đường giác ngộ, đạt đến Niết-bàn được. Như anh chàng ôm cây ngồi đợi thỏ, chỉ hoài công phí sức. Tăng lại thưa: “Hạnh mông sư hiển quyết, chung bất hướng tha cầu” (Ơn thầy chỉ rõ trước sau, chung quy khỏi phải tìm đâu thêm phiền). Sư đáp:

可怜遭一噎。

饥坐却忘餐。

“Khả lân tao nhất yết
Cơ tọa khước vong san” (8).
(Thương thay từng nghẹn một đôi lần
Đói lả ngồi ngây chẳng dám ăn).

Người học trò khi được Thiền sư dạy như thế, cho là đã ngộ rồi không cần đi tìm cầu ở nơi khác. Thiền sư khai ngộ bằng hình ảnh một người đói lả ngồi trước thức ăn mà chưa dám ăn, thật đáng thương. Chỉ ý của Thiền sư muốn nói đến những vị nghe rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tỏ ra tự mãn không muốn tìm cầu, không thực hành các thiện pháp, mà muốn thành Phật. Như thế thật không khác gì người đói, đói công phu tu tập theo giáo pháp Như Lai mà khao khát thành Phật. Thiền sư giảng đến đây, người học trò thốt lên rằng: “Kỷ niên đa tích năng trung bảo, kim nhật đương trường địch diện khan” (Của báu bao năm công góp nhặt, đến nay nhìn trước mắt rành rành). Sư đáp:

祇待中秋月。

却遭云雨侵。

“Chỉ đãi trung thu nguyệt
Khước tao vân vũ xâm” (9).
(Những đợi trăng trung thu
Nào hay khuất mây mù).

Nhiều năm bao công góp nhặt của báu, ngày nay trước mắt thấy rõ ràng. Câu này người học trò hỏi mà dường như không hỏi. Nghe qua câu nói của người học trò, tưởng chừng y đã ngộ, tự nhận ra chơn tâm Phật tánh trong chính mình. Nhưng Thiền sư Viên Chiếu lại nói: “Chờ mãi trăng Trung thu để thấy trăng tròn sáng nhất, nào ngờ bị mây mưa che khuất”. Nghĩa là, người học trò đã biết nơi mỗi người đều có Phật tánh thanh tịnh song chưa sáng tỏ mà bị mây vô minh che khuất, thật đáng buồn thay. Chân như Phật tính sáng suốt, thanh tịnh, tịch tĩnh, không có trong ngoài trước sau. Do đó, Thiền sư biết người học trò tâm chưa sáng nên dùng hình ảnh ví dụ khác để khai tâm mở trí.

笑他徒抱柱。

溺死向中流。

“Tiếu tha đồ bao trụ
Nịch tử hướng trung lưu” (10).
(Cười ai vịn cột cầu
Chết đuối dưới dòng sâu).

Thiền sư lại dẫn một điển tích văn học Trung Quốc, kể về anh chàng tên Vi Sinh hẹn gặp người yêu dưới cột cầu. Người con gái không đến. Chờ mãi, nước lên, Vi Sinh giữ lời hứa không bỏ chỗ hẹn, ôm cột cầu mà chết đuối (11). Ngài mượn câu chuyện để dạy cho người học trò rằng, chúng ta nhận biết Phật tánh tồn tại trong mỗi người nhưng không đồng nghĩa thành Phật. Chúng sanh ai ai cũng có Phật tánh nhưng không phải ai cũng đều thành Phật. Muốn giác ngộ thành Phật phải gia công hành trì tu tập, ngược lại nếu chấp vào như anh chàng Vi Sinh kia, thật uổng công vô ích. Nếu chấp vào Phật tánh sẵn có rồi không tu tập, không thực hành thiền định, không thực hành Chánh pháp, mong thành Phật thì quyết không có lẽ đó. Người học trò lại hỏi: “Nhậm ma tức thành Phật đa dã?” (Như thế nào là nhiều người thành Phật, ý nghĩa câu đó thế nào?). Sư đáp:

祖龙驱自止。

徐福远徒劳。

“Tổ Long khu tự chỉ
Từ Phúc viễn đồ lao” (12).
(Đường xa Từ Phúc nhọc lòng
Nữa chừng rong ruổi Tổ Long phải dừng).

Người học trò thắc mắc vì sao lại nhiều người thành Phật? Vì theo lời Phật dạy là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Thắc mắc đó được Thiền sư lý giải bằng cách dẫn câu chuyện của Tần Thủy Hoàng (Tổ Long) sai đạo sĩ Từ Phúc đi ra biển tìm cỏ trường sinh. Từ Phúc dẫn ba nghìn đồng nam, ba nghìn đồng nữ đi tìm nhưng mãi không thấy trở về. Còn Tần Thủy Hoàng vẫn ở tại quê hương của mình.

Tuy nói là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng không phải ai cũng có thể quay trở về với Phật tánh của chính mình. Từ Phúc dụ cho người mê, cứ đi tìm cái không thật, để rồi không trở về cố hương của mình. Còn Tổ Long dụ cho người giác, tuy có sai Từ Phúc đi tìm thuốc trường nhưng vẫn ở tại quê hương. Tánh giác của mỗi người như nhau, nhưng khác nhau vì người mê thì không biết quay lại với Phật tánh của mình, mãi phiêu lưu trong biển sanh tử, còn người giác tự biết quay trở lại với tánh giác của mình. Như vậy, sao có thể nói là nhiều người thành Phật.

Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được. Có Phật tánh chỉ là tiền đề dẫn đến thành Phật, song để nhận ra và quay trở về với Phật tánh thì không phải ai cũng có thể làm được. Những lời dạy của Thiền sư Viên Chiếu về chân như, Phật tánh xuất phát từ sự thật chứng sâu xa về thiền chỉ. Tuy giống nhau về bản chất giác ngộ nhưng để đạt đến thành Phật, còn tùy vào căn cơ tu tập của mỗi chúng sanh.

Chú thích:

1.Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.48.

2.Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, tái bản lần 3, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.320.

3.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.274-275.

4.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.275.

5.Thích Nhật Quang (2019), Kinh Viên Giác giảng giải, Nxb Hồng Đức, tr.106-107.

6.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

7.Dẫn lại Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.402.

8.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

9.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

10.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

11.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.292.

12.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.278.

Tài liệu tham khảo:

1.Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

2.Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, tái bản lần 3, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.

3. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Thích Nhật Quang (2019), Kinh Viên Giác giảng giải, Nxb Hồng Đức.

5. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb TP.HCM.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7598)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6123)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9991)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7101)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7334)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6995)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9364)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5846)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7110)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6533)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6113)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7172)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14397)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20459)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9477)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7886)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8197)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7457)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9380)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7469)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7491)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7684)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9488)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8795)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7395)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7976)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7040)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7685)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9872)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8291)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8840)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7692)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8845)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8665)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8009)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9024)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9437)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8760)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8892)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7231)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9196)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8609)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7899)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9652)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10201)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8789)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8405)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7651)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9349)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7499)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15379)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7325)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8511)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12267)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7335)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11524)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8323)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8048)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7920)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8949)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant