Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Cộng Đồng Trong Tăng Đoàn Đức Phật

30 Tháng Tám 202108:17(Xem: 3660)
Tính Cộng Đồng Trong Tăng Đoàn Đức Phật
Tính Cộng Đồng Trong Tăng Đoàn Đức Phật

Thích Nhật Hiếu

Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

        I.  
DẪN NHẬP:

Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN). Đó là cộng đồng Tăng già (Saṇgha); bao gồm cả Phật tử tại gia (Gahapati). Cộng đồng này được gọi chung là “Tứ chúng” (s:Catasraḥ parṣa; p: Catasso parisā): Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,  cư sĩ, Nữ cư sĩ (p: Bhikkhu, Bhikkhuni, Upāsaka, Upāsīka). Một cộng đồng không xây dựng trên nguyên tắc phục tùng uy quyền của thần linh, Giáo chủ, thủ lĩnh, hoặc pháp định, mà được xây dựng trên ý thức của mỗi cá nhân với 4 nguyên tắc sống hòa nhập (Tứ nhiếp pháp) và 6 nguyên tắc sống hoà hợp (Lục hoà cộng trụ), thích ứng với mọi lợi ích cho cá nhânlợi lạc cho cộng đồng.

        II.  NỘI DUNG:

              
a. Nguyên tắc hoàn thiện con người cá nhân:
         Đức Phật cũng đã khẳng định mối tương quan trong cuộc sống cộng đồng, cá nhân là một trong những thành tố tế bào xã hội, xã hội là tổng thể bao gồm mọi thành tố cá nhân; giáo dục cá nhânmục tiêu chiến lược để hoàn thiện xã hội. Tứ nhiếp pháp (四攝法四攝事s:Catvāri-saṃgrahavastūni; four all-embracing {bodhisattva} virtues)([1]) là 4 nguyên tắc đã được đức Phật vận dụng cách đây ngót 3 ngàn năm qua; các nguyên tắc giáo dục con người cá nhân hòa nhập vào cộng đồng một cách an toànhoàn hảo, cũng như có thể ứng phó và hóa giải mọi nguy cơ tác động khách quan:
                 1. Bố thí (布施; p-s:Dāna; giving what others like, in order to lead them to love and receive the truth):
         Cùng sống trong cộng đồng xã hội sẵn sàng chia sẻ những nỗi khó khăn với người khác như nhường cơm, xẻ áo, thuốc men,… khi người nghèo khó (Tài thí); dạy dỗ, giúp ý kiến, truyền trao kiến thức,… khi người khó khăn về hiểu biết (Pháp thí); an ủi, chở che, bao dung, tha thứ,… khi người khủng hoảng tinh thần (Vô uý thí). Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 4 trong lục hòa.
                 2.  Ái ngữ (愛語; p:Priyavāditā; s:Arthacaryā; affctionate, speech, with the same purpose):
         Cùng sống trong cộng đồng xã hội biết lắng nghe và chia sẻ niềm vui cho người, và làm vơi bớt những nỗi khổ đau của người bằng sự khích lệ lòng tự tin và hy vọng. Người đệ tử Phật biết im lặng đúng thời và nói năng đúng lúc; lời nói thật sự có sức thuyết phục, có giá trị xây dựng hiểu biết và hoà giải. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 3 trong lục hòa.
                 3.  Lợi hành (利行; p-s:Arthakṛtya, conduct profitable to others, with the same purpose):
Cùng sống trong cộng đồng xã hội biết nhường nhịn và san sẻ lẫn nhau những gì thu hoạch được từ vật chất cho đến tinh thần; tự suy nghĩ một cách hiểu biết: Tâm lý tham lam, bỏn xẻn muốn thâu hết vào mình tất cả những lợi lộc là tự làm khổ mình. Vì rằng: “Đa thọ là đa khổ”, không lợi ích gì cho hiện tại, mà còn làm trở ngại cho sự tiến bộ tâm linh trên lộ trình giác ngộ giải thoát mà thôi. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 4 trong lục hòa.
                 4.  Đồng sự (同事; p-s:Samānārthatā; co-operation with and adaptation of oneself to others, to lead them into the truth):
         Cùng sống trong cộng đồng xã hội biết san sẻ những công việc, những nỗi nhọc nhằn với đồng nghiệp, Pháp lữmọi người; biết dấn thân, hoà đồng với mọi người trong đời sống cộng đồng; không lập dị, quan liêu, kiểu cách mà biết nhập cuộc cùng làm, cùng ăn, cùng ở, cùng vui chơi giải trí với mọi người. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 2 trong lục hòa.
          b.  Nguyên tắc hoàn thiện cuộc sống cộng đồng:
         Đoàn thể đệ tử của đức Phật có 2: Cộng đồng Tăng già (Saṇgha) và cộng đồng Phật tử tại gia (Gahapati). Một cộng đồng không xây dựng trên nguyên tắc uy quyền của giáo chủ hoặc pháp định, mà được xây dựng trên ý thức của mỗi cá nhân. Đó là sáu nguyên tắc sống hòa hợp (Lục hoà: 六和敬 (六和) s:Saḍsāramyadharma; The six points of reverent harmony or unity in a monastery or convent)([2]) đoàn kết trong tình thân thương đầy thánh thiện của cộng đồng những người đệ tử của đức Phật tại gia cũng như xuất gia. Đơn cử một số nguyên tắc đoàn thể sống trong hòa hợp mà trong Phật giáo đã áp dụng có bề dày lịch sử ngót 3 ngàn năm qua.
                 1. Hoà đồng trên nguyên tắc kỷ luật (Giới hòa đồng tu: 戒和同修; moral unity in observing the commandments):
         Cộng đồng đệ tử Đức Phật giữ gìn Giới luật không để bị nhiễm ô, sứt mẻ đối với những người bạn đồng tu cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau. Như vậy, nguyên tắc này được xem là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhânthịnh vượng cho tổ chức. Đức Phật dạy: Phật tử tại gia giữ 5 giới; Xuất gia như: Sa di, Sa di ni giữ 10 giới; Tỳ kheo giữ 250 giới; Tỳ kheo ni giữ 348 giới,v.v...
Mục tiêu giá trị cần phải đạt được của tất cả mọi người con Phật chúng tagiải thoát tâm linh. Lộ trình đưa đến mục tiêu ấy là Trì giới. Nó giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn, thân chứng chân lý giải thoát. Giới luật là hàng rào bảo vệ an toàn phẩm hạnh nhân cách, ngăn ngừa điều sai trái, dứt trừ điều xấu xa (phòng phi chỉ ác). Hơn nữa, Giới luật của Phật giáo chính là nền luân lý, đạo đức; ngoài việc thánh thiện hoá cho cá nhân ra, còn được xem là những nguyên tắc thăng hoa cho cộng đồng xã hội. Theo tinh thần Duyên sinh vô ngã, Phật giáo cho rằng, cá nhân không thể tách rời cộng đồng, và cộng đồng không ngoài cá nhân; vì vậy, sự trong sạch tư cách của cá nhân chính là sự thăng hoa và thịnh vượng của cộng đồng tổ chức.
         Chúng ta cũng biết, quốc gia không luật pháp, quốc gia suy vong; tổ chức không kỷ luật, tổ chức ô hợp; tôn giáo không giáo luật, tôn giáo tục lậu. Cũng vậy, Phật giáo là một tổ chức cộng đồng có một nền giới luật chặt chẽ và nghiêm minh, nhưng có một tính chất ưu việt hơn các tổ chức xã hội cũng như tôn giáo khác là Giới luật không xem như là một Giáo luật hay Tín điều đầy uy quyền do một đấng tối cao nào, hoặc cơ quan chuyên chế pháp định nào đó ban hành, mà nó được xem là một bản thoả thuận chung của cộng đồng đệ tử của Đức Phật. Thời Đức Phật còn tại thế, sự kiết giới và chế định luật nghi, Ngài không áp đặt, mà là dựa trên nguyên tắc “Tùy phạm tùy kiết”, nghĩa là trong thực tế những sự kiện nào đã gây ra sự bất ổn, bất hạnh cho cá nhâncộng đồng thì Đức Phật dựa vào đó mà chế định ra Giới luật. Do đó, Giới luật được xem là hàng rào, là thành luỹ bảo vệ an toàn cho cuộc sống phạm hạnh, cuộc sống đầy thánh thiện, giúp cho mọi người Phật tử Tại gia cũng như Xuất gia chuyển hoá phiền não, khổ đau để thoát ly mọi hệ lụy của tham lam, sân hận, si mê,… hướng đến thanh tịnh, từ bi và trí giác; nhằm đem lại sự thanh bìnhan lạc cho cuộc đời. Vì vậy, mọi người đệ tử của Đức Phật phải giữ gìn cẩn thận, xem đó như con thuyền vượt bể khổ trần gian nhắm bờ giải thoát.
                 2. Hoà đồng trên nguyên tắc hành động (Thân hòa đồng trụ: 身和同住; Bodily unity in form of worship):
         Mọi hoạt động, hành vi trong cộng đồng đệ tử Đức Phật đều hợp nhất: đi cùng đi, ở cùng ở, ăn cùng ăn, làm cùng làm, nghỉ cùng nghỉ,… không lập dị kiểu cách, không phách lối quan liêu, biết hòa mình, đồng sự đối với mọi người, không sống đóng khung, cô lập, để rồi gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm giao tình cảm đối với mọi Pháp lữ, Đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành mối tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau. Như vậy, nguyên tắc này được xem tương ứng với “Đồng sự nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp, và cũng là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhânthịnh vượng cho tổ chức.
                 3. Hoà đồng trên nguyên tắc ngôn luận (Khẩu hòa vô tránh口和同爭; Oral unity in chanting):
         Luôn dùng lời ái ngữ dễ mến, tạo niềm tin yêu thật sự cho người nghe: “Không nói lời lọc lừalời nói thành thật; không nói lời thêu dệt mà nói lời ngay thẳng; không nói lời hung ác mà nói lời từ ái; không nói lời gây chia rẽ và hận thù mà nói lời mang ý nghĩa xây dựnghòa giải;…”; không gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm giao tình cảm đối với những pháp lữ, đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng,… để tạo thành tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau, nhất trí không tranh luận; ngoài ra, với ý nghĩa của Pháp hòa này, Đức Phật còn dạy về nguyên tắc để dập tắt sự tranh cải (Thất pháp diệt tránh)([3]) một cách rất tinh tế; và Ngài còn dạy thêm về sự hợp mặt của Tăng đoàn nếu có thì nên “Nói năng như chánh phápim lặng như chánh pháp”([4]). Ở đây, nguyên tắc thứ 3 này được xem tương ứng với “Ái ngữ nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp. Như vậy, nguyên tắc này được xem là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhânthịnh vượng cho tổ chức.
                 4. Hoà đồng trên nguyên tắc quyền lợi (Lợi hòa đồng quân: , or 施和同均;  Economic unity in community of goods, deeds, studies, or charity):
         Như trong truyền thống tổ chức Tăng đoàn Phật giáo. Những Pháp lữ đồng tu trong tổ chức truyền thống cộng đồng đệ tử Đức Phật, mọi quyền lợi từ vật chất cùng như tinh thần đều cùng nhau san sẻ đồng đều bình đẳng với nhau; biết nhường nhịn lẫn nhau, không so đo, tính toán; không ganh ghét đố kỵ, tư  hiềm tranh quyền đoạt lợi.
Với tinh thần “duyên sinh vô ngã”, con người không một thứ gì là của riêng mình, mà là một sự hòa hợp duyên sinh do nhiều yếu tố tác thành. Con ngườixã hội, xã hộicon người. Chính vì vậy mà mấy ngàn năm qua kể từ sau khi Đức Phật diệt độ, Tăng đoàn của đức Phật vẫn giữ được phong độ xuất thế  của mình trong vai trò “Vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì lợi lạc thế gian mà làm cán cân đạo lý cho ngàn đời”. Cộng đồng đệ tử xuất gia của Đức Phật là những người Vô sản, những người không gia đình (s:Pravraiyā; p: Pabhajjā), không riêng tư. Những người từ bỏ tất cả, để rồi đến với tất cả. Tóm lại, “Phụng sự chúng sinhcúng dường Chư Phật”. Cái lợi ở đây, Phật giáo xem “lợi tha hơn là tự lợi, vị tha hơn là vị kỷ, vì người hơn là vì mình”. Vì vậy, tính bao dung, hy sinhphụng sự được xem là tính chất đặc trưng của Phật giáo. Ở đây, tính chất thứ 4 này được xem tương ứng với “Bố thí nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp.
         Chừng mực nào đó, có thể nhân rộng mô hình sống mang tính cộng đồng trên áp dụng vào cuộc sống cộng đồng xã hội. Có thể hiểu quyền lợi cộng đồng xã hội ở đây được xác lập trên các nền tảng cơ bản: quyền được bảo hộ luật pháp, quyền học tập trau dồi tri thức, hành nghề làm ăn hợp pháp, quyền được ứng-bầu cử thể hiện nguyện vọng & xây dựng xã hội cộng đồng, quyền hưởng trợ cấp an sinh xã hội,v.v… Quyền lợi này được phân đều cho mọi người trong xã hội, không dành riêng cho giới nào hay cá nhân ai.
                 5.  Hoà đồng trên nguyên tắc ý chí (Ý hòa đồng duyệt: 意和同悅; Mental unity in faith):
         Trong cộng đồng đệ tử của Đức Phật, sự hòa hợp ý chí, tâm tư và nguyện vọng, thâm tình đồng môn hòa mục chung sống được xem là vấn đề tối trọng. Một khi một người đã từ bỏ thân thuộc trong gia đình để đi xuất gia, thì còn niềm vui nào hơn là niềm vui đoàn thể Pháp lữ, cùng san sẻ bùi ngọt, vui buồn với nhau. Nhiều người cho rằng, những người đi tu là những người yếm thế, chán đời, lánh tục,… là những kẻ vô hại nhưng cũng là những người bất lợi cho xã hội; hơn thế nữa, có người cho rằng họ là những kẻ bỏ đi. Hàng ngũ thầy tu Phật giáo là những thành phần phi sản xuất. Thế nhưng, họ có biết rằng những con người như vậy đã suốt cuộc đời sống hy sinh, sống quên đi hạnh phúc cá nhân của mình để giữ lấy lý tưởng phạm hạnh, giữ lấy đạo lý, lẽ phải để soi sáng cho đời, như vậy mà bị đánh giálãnh đạm, lánh đời,… là bất lợi cho xã hội được hay sao?!! Có biết chăng, bên trong cánh cửa nhà Phật là một thế giới của những con người ngày đêm nỗ lực không ngừng đào luyện tài năng, tô bồi phẩm hạnh để xứng đáng bậc thầy đưa đường chỉ lối cho trời người. Thật vậy, ngót 3 ngàn năm qua, mái chùa, cửa Phật luôn là nơi cưu mang các bậc anh tài, khai phóng tinh thần dân tộc trong buổi đầu lập quốc, là nơi chở che hồn thiêng dân tộc trong buổi quốc loạn thời suy. Nếu không phải là nơi tổ chức hội đoàn có truyền thống giáo dục chặt chẽ thì làm sao Phật giáo Việt  ghi được những trang sử vàng sáng ngời như vậy. Từ ấy, chúng ta nhận thấy, tổ chức Phật giáo không phải là tổ chức ồ ạt về số đông, nhộn nhịp về cơ cấu, chặt chẽ về ban ngành,…; tuy nhiên, đây là tổ chức đoàn thể mang tính tự ý thức giác ngộ, sống đời tỉnh thức, với tinh thần tự giác, không mang tính cưỡng chế pháp định hoặc giáo quyền nào. Với ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm về bất cứ những hành vi, hành động tốt hay xấu, thiện hay ác do chính mình tự tạo ra. Do đó, ở điểm này Phật giáo được hiểu là một lẽ sống mang tính nhân bản hơn là một Tôn giáo. Hơn nữa, nếu ở lãnh vực Tôn giáo thì Phật giáo mang tính Tôn giáo của từ bi, cứu khổ, của sự sống tâm linh hơn là Tôn giáo của thần linh mặc khải. Còn nếu Phật giáo được hiểu là một tổ chức thì được hiểu là tổ chức của những người sống đời sống tỉnh thức, trí tuệtừ bi hơn là một hội đoàn thông thường luôn mong muốn mình lớn mạnh, vươn cánh tay bạch tuộc bành trướng, thị oai, thao túng, cạnh tranh, trấn áp, lấn lướt, như tất cả những hội đoàn đời thường khác.
Có thể nói: “Phật giáo là cộng đồng tổ chức của những người tỉnh thức, vui sống trong tình thân hữu, không màn đến những vấn đề được mất, hơn thua,… vui với những niềm vui của người, buồn với những cái đau thương của đời; không thấy đâu là ranh giới giữa người và ta; không ranh giới trên phương diện hình thức lãnh thổ quốc gia, gia đình, tổ chức,… không cả ranh giới ý thức hệ lẫn tâm hồn, trãi dài cả pháp giới mênh mong trong vô lượng vô biên vi trần quốc độ.”
                 6. Hoà đồng trên nguyên tắc nhận thức (Kiến hòa đồng giải: 見和同解; Doctrinal unity in views and explanations):
Thành tựu mọi tri kiến, hợp nhất mọi nhận thức trong cộng đồng đệ tử Đức Phật, không những nâng đỡ nhau về đời sống vật chất mà còn giúp nhau trong cuộc sống tinh thần về tri thức, tri kiếnhiểu biết. Đạo Phật được nhìn nhận là đạo của trí tuệtừ bi; chính vì vậy mà ngay cả Đức Phật, Ngài cũng không độc quyền chân lý giác ngộ mà Ngài dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”; thành Phật trước hoặc thành Phật sau đều cùng một ý nghĩagiác ngộ chân lý, thoát ly mọi hệ lụy khổ đau của cuộc đời. Mọi Phật tử luôn luôn với tâm nguyện: “Đệ tử và tất cả chúng sinh đều trọn thành Phật đạo”. Đây là nguyên lý cuối cùng của Lục hòa cộng trụ, nhưng cũng là nguyên lý bao quát nhất trong tất cả các nguyên lý trên trong nguyên tắc ứng xử trong đời sống cộng đồng đệ tử của Đức Phật.

         III. KẾT LUẬN:

         Nhìn chung, những nguyên tắc sống trên (Tứ nhiếp pháp & Lục hoà) là hành vi ứng xử cao thượng của một nhà lãnh đạo đối với cộng đồng, được xem là bí quyết để thu phục nhân tâm. Điều đó đã chứng minh bằng sự thành công của Cư sĩ Hattaka trong vai trò lãnh đạo chúng cư sĩ năm trăm người. Đặc biệt, chúng ta không thể không nghiêng mình bái phục khả năng xuất chúng trong việc vận dụng và điều hành cộng đồng Giáo hội Tăng già một cách thông suốt, chặt chẽ, tinh nghiêm, tự giác, nhất là tính dân chủ rất cao.
Như ông Lord Zetland, một học giả người Anh đã nhận xét: “Và rất nhiều người ngạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội của chúng ta (Anh quốc) ngày nay đã có sẵn trong Giáo hội Phật giáo Ấn Độ cách đây hơn hai ngàn năm về trước.” (And it may come as a surpose to many to learn that in the Assemblies of the Buddhism in  two thousand years and more age to be found the rudiments of our own Parliamentary practice of the present day.)([5])
         Tinh thần Lục hoà và Tứ nhiếp là một nếp sống đẹp để xây dựng đời sống cộng đồng. Sáu nguyên tắc sống hoà hợp này được xem như là bản hiến pháp đầu tiên trong Phật giáo, với tinh thần thoả thuận chung rất cởi mở, tự doý thức. Thiết nghĩ, nguyên lý sống này không riêng gì nếp sống đạo mà nó thích ứng trong mọi gia đình, học đường và bất cứ hoạt động tổ chức xã hội nào. Cho dù các nhà xã hội học có vận dụng phương thức hiện đại về tổ chức như thế nào đi chăng nữa cũng không sao vượt qua được các nguyên tắc trình bày trên. Cách đây trên 25 thế kỷ về trước mà Phật giáo đã có một tinh thần xã hội mang tính hiện đại như vậy. Ngót 3 ngàn năm qua mà tinh thần truyền thống cộng đồng Tăng già này vẫn còn được bảo lưu rất tốt ở các nước  truyền cũng như Bắc truyền Phật giáo.


[1] Tăng chi VI, phẩm gia chủ, bd. HT, Thích Minh Châu, 1992, tr. 582-583

[2] Trung bộ III, số 104, Kinh Sāmagām; Trung bộ I, Kinh Kosambi; Kinh Tăng chi IIB, số 157, K. Hoàng lô viên

[3] Vinaya Text, Pātimokkha, Motilal Banarsidass, 1968, P. 68; Phật dạy: "Tỳ kheo hội họp có 2 việc cần phải làm: nói năn như  pháp (P:Saṅkilesadhammo samāno pariyesati) hay im lặng như pháp (P:Saṅkilesadhammañ-ñeva pariyesati)" (Maj.I, No.26

[4] Majjhima I, No 26, Ariyapariyesanasuttaṃ, Pāli Text Society, 1954, P. 205

[5] Teachings of the Buddha, edited by Jack Kornfield, , 1996, PP. 75-76
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6090)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9352)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6410)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5978)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7496)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7311)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5199)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8087)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5926)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9615)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7389)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7415)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6220)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5317)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5858)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5656)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3966)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5699)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4083)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7518)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5714)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21903)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5596)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7055)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5014)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6438)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5809)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5010)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7049)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6043)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5569)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5876)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6002)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6815)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6435)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6080)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6471)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6158)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6353)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5597)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6897)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4563)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7780)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6015)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7269)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7700)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5494)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5145)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5654)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5510)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5518)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5016)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4261)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6039)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5633)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6295)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8527)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5236)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5803)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant