Tính Cộng Đồng Trong Tăng ĐoànĐức Phật Thích Nhật Hiếu
I. DẪN NHẬP:
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sửnhân loại (-5 CN). Đó là cộng đồngTăng già (Saṇgha); bao gồm cả Phật tửtại gia (Gahapati). Cộng đồng này được gọi chung là “Tứ chúng” (s:Catasraḥ parṣa; p: Catasso parisā): Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ, Nữ cư sĩ (p: Bhikkhu, Bhikkhuni, Upāsaka, Upāsīka). Một cộng đồng không xây dựng trên nguyên tắc phục tùng uy quyền của thần linh, Giáo chủ, thủ lĩnh, hoặc pháp định, mà được xây dựng trên ý thức của mỗi cá nhân với 4 nguyên tắc sống hòa nhập (Tứ nhiếp pháp) và 6 nguyên tắc sống hoà hợp (Lục hoà cộng trụ), thích ứng với mọi lợi ích cho cá nhân và lợi lạc cho cộng đồng.
II. NỘI DUNG:
a. Nguyên tắc hoàn thiệncon ngườicá nhân:
Đức Phật cũng đã khẳng định mối tương quan trong cuộc sống cộng đồng, cá nhân là một trong những thành tố tế bào xã hội, xã hội là tổng thể bao gồm mọi thành tố cá nhân; giáo dụccá nhân là mục tiêu chiến lược để hoàn thiệnxã hội. Tứ nhiếp pháp (四攝法/ 四攝事s:Catvāri-saṃgrahavastūni; four all-embracing {bodhisattva} virtues)([1]) là 4 nguyên tắc đã được đức Phật vận dụng cách đây ngót 3 ngàn năm qua; các nguyên tắc giáo dụccon ngườicá nhân hòa nhập vào cộng đồng một cách an toàn và hoàn hảo, cũng như có thể ứng phó và hóa giải mọi nguy cơ tác động khách quan: 1. Bố thí (布施; p-s:Dāna; giving what others like, in order to lead them to love and receive the truth):
Cùngsống trong cộng đồngxã hội sẵn sàng chia sẻ những nỗi khó khăn với người khác như nhường cơm, xẻ áo, thuốc men,… khi người nghèo khó (Tài thí); dạy dỗ, giúp ý kiến, truyền trao kiến thức,… khi người khó khăn về hiểu biết (Pháp thí); an ủi, chở che, bao dung, tha thứ,… khi người khủng hoảng tinh thần (Vô uý thí). Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 4 trong lục hòa. 2. Ái ngữ (愛語; p:Priyavāditā; s:Arthacaryā; affctionate, speech, with the same purpose):
Cùng sống trong cộng đồngxã hội biết lắng nghe và chia sẻ niềm vui cho người, và làm vơi bớt những nỗi khổ đau của người bằng sự khích lệ lòng tự tin và hy vọng. Người đệ tử Phật biết im lặng đúng thời và nói năng đúng lúc; lời nói thật sự có sức thuyết phục, có giá trịxây dựnghiểu biết và hoà giải. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 3 trong lục hòa. 3. Lợi hành (利行; p-s:Arthakṛtya, conduct profitable to others, with the same purpose):
Cùng sống trong cộng đồngxã hội biết nhường nhịn và san sẻ lẫn nhau những gì thu hoạch được từ vật chấtcho đếntinh thần; tự suy nghĩ một cách hiểu biết: Tâm lýtham lam, bỏn xẻn muốn thâu hết vào mình tất cả những lợi lộc là tự làm khổ mình. Vì rằng: “Đa thọ là đa khổ”, không lợi ích gì cho hiện tại, mà còn làm trở ngại cho sự tiến bộtâm linh trên lộ trình giác ngộgiải thoát mà thôi. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 4 trong lục hòa. 4. Đồng sự (同事; p-s:Samānārthatā; co-operation with and adaptation of oneself to others, to lead them into the truth):
Cùng sống trong cộng đồngxã hội biết san sẻ những công việc, những nỗi nhọc nhằn với đồng nghiệp, Pháp lữ và mọi người; biết dấn thân, hoà đồng với mọi ngườitrong đời sống cộng đồng; không lập dị, quan liêu, kiểu cách mà biết nhập cuộc cùng làm, cùng ăn, cùng ở, cùng vui chơigiải trí với mọi người. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 2 trong lục hòa. b. Nguyên tắc hoàn thiện cuộc sống cộng đồng:
Đoàn thể đệ tử của đức Phật có 2: Cộng đồngTăng già (Saṇgha) và cộng đồngPhật tửtại gia (Gahapati). Một cộng đồng không xây dựng trên nguyên tắc uy quyền của giáo chủ hoặc pháp định, mà được xây dựng trên ý thức của mỗi cá nhân. Đó là sáu nguyên tắc sống hòa hợp (Lục hoà: 六和敬 (六和) s:Saḍsāramyadharma; The six points of reverent harmony or unity in a monastery or convent)([2]) đoàn kết trong tình thân thương đầy thánh thiện của cộng đồng những người đệ tử của đức Phậttại gia cũng như xuất gia. Đơn cử một số nguyên tắc đoàn thể sống trong hòa hợp mà trong Phật giáo đã áp dụng có bề dày lịch sử ngót 3 ngàn năm qua. 1. Hoà đồng trên nguyên tắc kỷ luật (Giới hòa đồng tu: 戒和同修;moral unity in observing the commandments):
Cộng đồngđệ tửĐức Phậtgiữ gìnGiới luật không để bị nhiễm ô, sứt mẻ đối với những người bạn đồng tu cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau. Như vậy, nguyên tắc này được xem là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhân và thịnh vượng cho tổ chức. Đức Phật dạy: Phật tửtại gia giữ 5 giới; Xuất gia như: Sa di, Sa di ni giữ 10 giới; Tỳ kheo giữ 250 giới; Tỳ kheo ni giữ 348 giới,v.v...
Mục tiêugiá trịcần phảiđạt được của tất cả mọi người con Phật chúng ta là giải thoáttâm linh. Lộ trình đưa đến mục tiêu ấy là Trì giới. Nó giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn, thân chứngchân lýgiải thoát. Giới luật là hàng rào bảo vệan toàn phẩm hạnh nhân cách, ngăn ngừa điều sai trái, dứt trừ điều xấu xa (phòng phi chỉ ác). Hơn nữa, Giới luật của Phật giáo chính là nền luân lý, đạo đức; ngoài việc thánh thiện hoá cho cá nhân ra, còn được xem là những nguyên tắc thăng hoa cho cộng đồngxã hội. Theo tinh thầnDuyên sinhvô ngã, Phật giáo cho rằng, cá nhân không thể tách rời cộng đồng, và cộng đồng không ngoài cá nhân; vì vậy, sự trong sạchtư cách của cá nhân chính là sự thăng hoa và thịnh vượng của cộng đồng tổ chức.
Chúng ta cũng biết, quốc gia không luật pháp, quốc gia suy vong; tổ chức không kỷ luật, tổ chức ô hợp; tôn giáokhông giáo luật, tôn giáo tục lậu. Cũng vậy, Phật giáo là một tổ chức cộng đồng có một nền giới luật chặt chẽ và nghiêm minh, nhưng có một tính chấtưu việt hơn các tổ chức xã hội cũng như tôn giáo khác là Giới luật không xem như là một Giáo luật hay Tín điều đầy uy quyền do một đấng tối cao nào, hoặc cơ quan chuyên chế pháp định nào đó ban hành, mà nó được xem là một bản thoả thuận chung của cộng đồngđệ tử của Đức Phật. Thời Đức Phật còn tại thế, sự kiết giới và chế định luật nghi, Ngài không áp đặt, mà là dựa trên nguyên tắc “Tùy phạm tùy kiết”, nghĩa là trong thực tế những sự kiện nào đã gây ra sự bất ổn, bất hạnh cho cá nhân và cộng đồng thì Đức Phậtdựa vào đó mà chế định ra Giới luật. Do đó, Giới luật được xem là hàng rào, là thành luỹ bảo vệan toàn cho cuộc sống phạm hạnh, cuộc sống đầy thánh thiện, giúp cho mọi ngườiPhật tửTại gia cũng như Xuất giachuyển hoáphiền não, khổ đau để thoát ly mọi hệ lụy của tham lam, sân hận, si mê,… hướng đến thanh tịnh, từ bi và trí giác; nhằm đem lại sự thanh bình và an lạc cho cuộc đời. Vì vậy, mọi ngườiđệ tử của Đức Phật phải giữ gìncẩn thận, xem đó như con thuyền vượt bể khổ trần gian nhắm bờ giải thoát. 2. Hoà đồng trên nguyên tắc hành động (Thân hòa đồng trụ: 身和同住;Bodily unity in form of worship):
Mọi hoạt động, hành vi trong cộng đồngđệ tửĐức Phật đều hợp nhất: đi cùng đi, ở cùng ở, ăn cùng ăn, làm cùng làm, nghỉ cùng nghỉ,… không lập dị kiểu cách, không phách lối quan liêu, biết hòa mình, đồng sự đối với mọi người, không sống đóng khung, cô lập, để rồi gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm giao tình cảm đối với mọi Pháp lữ, Đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành mối tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau. Như vậy, nguyên tắc này được xem tương ứng với “Đồng sự nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp, và cũng là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhân và thịnh vượng cho tổ chức. 3. Hoà đồng trên nguyên tắc ngôn luận (Khẩu hòavô tránh: 口和同爭;Oral unity in chanting):
Luôn dùng lời ái ngữ dễ mến, tạo niềm tin yêu thật sự cho người nghe: “Không nói lời lọc lừa mà lời nóithành thật; không nói lời thêu dệt mà nói lời ngay thẳng; không nói lời hung ác mà nói lời từ ái; không nói lời gây chia rẽ và hận thù mà nói lời mang ý nghĩaxây dựng và hòa giải;…”; không gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm giao tình cảm đối với những pháp lữ, đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng,… để tạo thành tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau, nhất trí không tranh luận; ngoài ra, với ý nghĩa của Pháp hòa này, Đức Phật còn dạy về nguyên tắc để dập tắt sự tranh cải (Thất pháp diệt tránh)([3]) một cách rất tinh tế; và Ngài còn dạy thêm về sự hợp mặt của Tăng đoàn nếu có thì nên “Nói năng như chánh pháp và im lặng như chánh pháp”([4]). Ở đây, nguyên tắc thứ 3 này được xem tương ứng với “Ái ngữ nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp. Như vậy, nguyên tắc này được xem là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhân và thịnh vượng cho tổ chức. 4. Hoà đồng trên nguyên tắc quyền lợi (Lợi hòa đồng quân: 利, 行, 學, or 施和同均;Economic unity in community of goods, deeds, studies, or charity):
Như trong truyền thống tổ chức Tăng đoànPhật giáo. Những Pháp lữ đồng tu trong tổ chức truyền thốngcộng đồngđệ tửĐức Phật, mọi quyền lợi từ vật chất cùng như tinh thần đều cùng nhau san sẻ đồng đềubình đẳngvới nhau; biết nhường nhịn lẫn nhau, không so đo, tính toán; không ganh ghétđố kỵ, tư hiềm tranh quyền đoạt lợi.
Với tinh thần “duyên sinh vô ngã”, con người không một thứ gì là của riêng mình, mà là một sự hòa hợpduyên sinh do nhiều yếu tốtác thành. Con người là xã hội, xã hội là con người. Chính vì vậy mà mấy ngàn năm qua kể từ sau khi Đức Phậtdiệt độ, Tăng đoàn của đức Phật vẫn giữ được phong độxuất thế của mình trong vai trò “Vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì lợi lạcthế gian mà làm cán cân đạo lý cho ngàn đời”. Cộng đồngđệ tửxuất gia của Đức Phật là những người Vô sản, những người không gia đình (s:Pravraiyā; p: Pabhajjā), không riêng tư. Những người từ bỏ tất cả, để rồi đến với tất cả. Tóm lại, “Phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật”. Cái lợi ở đây, Phật giáo xem “lợi tha hơn là tự lợi, vị tha hơn là vị kỷ, vì người hơn là vì mình”. Vì vậy, tính bao dung, hy sinh và phụng sự được xem là tính chất đặc trưng của Phật giáo. Ở đây, tính chất thứ 4 này được xem tương ứng với “Bố thí nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp.
Chừng mực nào đó, có thể nhân rộng mô hình sống mang tính cộng đồng trên áp dụng vào cuộc sống cộng đồngxã hội. Có thể hiểu quyền lợicộng đồngxã hội ở đây được xác lập trên các nền tảng cơ bản: quyền được bảo hộluật pháp, quyền học tập trau dồi tri thức, hành nghề làm ăn hợp pháp, quyền được ứng-bầu cử thể hiện nguyện vọng & xây dựngxã hộicộng đồng, quyền hưởng trợ cấp an sinh xã hội,v.v… Quyền lợi này được phân đều cho mọi người trong xã hội, không dành riêng cho giới nào hay cá nhân ai. 5. Hoà đồng trên nguyên tắc ý chí (Ý hòa đồng duyệt: 意和同悅;Mental unity in faith):
Trong cộng đồngđệ tử của Đức Phật, sự hòa hợpý chí, tâm tư và nguyện vọng, thâm tình đồng mônhòa mục chung sống được xem là vấn đề tối trọng. Một khi một người đã từ bỏthân thuộc trong gia đình để đi xuất gia, thì còn niềm vui nào hơn là niềm vui đoàn thể Pháp lữ, cùng san sẻ bùi ngọt, vui buồnvới nhau. Nhiều người cho rằng, những người đi tu là những người yếm thế, chán đời, lánh tục,… là những kẻ vô hại nhưng cũng là những người bất lợi cho xã hội; hơn thế nữa, có người cho rằng họ là những kẻ bỏ đi. Hàng ngũ thầy tu Phật giáo là những thành phần phi sản xuất. Thế nhưng, họ có biết rằng những con người như vậy đã suốt cuộc đời sống hy sinh, sống quên đi hạnh phúccá nhân của mình để giữ lấy lý tưởngphạm hạnh, giữ lấy đạo lý, lẽ phải để soi sáng cho đời, như vậy mà bị đánh giá là lãnh đạm, lánh đời,… là bất lợi cho xã hội được hay sao?!! Có biết chăng, bên trong cánh cửa nhà Phật là một thế giới của những con người ngày đêm nỗ lực không ngừng đào luyện tài năng, tô bồi phẩm hạnh để xứng đáng bậc thầy đưa đường chỉ lối cho trời người. Thật vậy, ngót 3 ngàn năm qua, mái chùa, cửa Phật luôn là nơi cưu mang các bậc anh tài, khai phóng tinh thần dân tộc trong buổi đầu lập quốc, là nơi chở che hồn thiêng dân tộc trong buổi quốc loạn thời suy. Nếu không phải là nơi tổ chức hội đoàn có truyền thốnggiáo dục chặt chẽ thì làm sao Phật giáo Việt ghi được những trang sử vàng sáng ngời như vậy. Từ ấy, chúng tanhận thấy, tổ chức Phật giáo không phải là tổ chức ồ ạt về số đông, nhộn nhịp về cơ cấu, chặt chẽ về ban ngành,…; tuy nhiên, đây là tổ chức đoàn thể mang tính tự ý thứcgiác ngộ, sống đời tỉnh thức, với tinh thầntự giác, không mang tính cưỡng chế pháp định hoặc giáo quyền nào. Với ý thứctự giác, tự chịu trách nhiệm về bất cứ những hành vi, hành động tốt hay xấu, thiện hay ác do chính mình tự tạo ra. Do đó, ở điểm này Phật giáo được hiểu là một lẽ sống mang tính nhân bản hơn là một Tôn giáo. Hơn nữa, nếu ở lãnh vựcTôn giáo thì Phật giáo mang tính Tôn giáo của từ bi, cứu khổ, của sự sống tâm linh hơn là Tôn giáo của thần linh mặc khải. Còn nếu Phật giáo được hiểu là một tổ chức thì được hiểu là tổ chức của những người sống đời sốngtỉnh thức, trí tuệ và từ bi hơn là một hội đoàn thông thường luôn mong muốn mình lớn mạnh, vươn cánh tay bạch tuộc bành trướng, thị oai, thao túng, cạnh tranh, trấn áp, lấn lướt, như tất cả những hội đoàn đời thường khác.
Có thể nói: “Phật giáo là cộng đồng tổ chức của những người tỉnh thức, vui sống trong tình thân hữu, không màn đến những vấn đề được mất, hơn thua,… vui với những niềm vui của người, buồn với những cái đau thương của đời; không thấy đâu là ranh giới giữa người và ta; không ranh giới trên phương diệnhình thức lãnh thổ quốc gia, gia đình, tổ chức,… không cả ranh giớiý thức hệ lẫn tâm hồn, trãi dài cả pháp giới mênh mong trong vô lượngvô biênvi trầnquốc độ.” 6. Hoà đồng trên nguyên tắc nhận thức (Kiến hòa đồng giải: 見和同解; Doctrinal unity in views and explanations):
Thành tựu mọi tri kiến, hợp nhất mọi nhận thức trong cộng đồngđệ tửĐức Phật, không những nâng đỡ nhau về đời sống vật chất mà còn giúp nhau trong cuộc sống tinh thần về tri thức, tri kiến và hiểu biết. Đạo Phật được nhìn nhận là đạo của trí tuệ và từ bi; chính vì vậy mà ngay cả Đức Phật, Ngài cũng không độc quyềnchân lýgiác ngộ mà Ngài dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”; thành Phật trước hoặc thành Phật sau đều cùng một ý nghĩa là giác ngộchân lý, thoát ly mọi hệ lụy khổ đau của cuộc đời. Mọi Phật tử luôn luôn với tâm nguyện: “Đệ tử và tất cảchúng sinh đều trọn thành Phật đạo”. Đây là nguyên lý cuối cùng của Lục hòa cộng trụ, nhưng cũng là nguyên lý bao quát nhất trong tất cả các nguyên lý trên trong nguyên tắc ứng xử trong đời sống cộng đồngđệ tử của Đức Phật.
III. KẾT LUẬN:
Nhìn chung, những nguyên tắc sống trên (Tứ nhiếp pháp & Lục hoà) là hành vi ứng xử cao thượng của một nhà lãnh đạo đối với cộng đồng, được xem là bí quyết để thu phụcnhân tâm. Điều đó đã chứng minh bằng sự thành công của Cư sĩ Hattaka trong vai tròlãnh đạo chúng cư sĩ năm trăm người. Đặc biệt, chúng ta không thể khôngnghiêng mình bái phục khả năng xuất chúng trong việc vận dụng và điều hànhcộng đồngGiáo hộiTăng già một cách thông suốt, chặt chẽ, tinh nghiêm, tự giác, nhất là tính dân chủ rất cao.
Như ông Lord Zetland, một học giả người Anh đã nhận xét: “Và rất nhiều ngườingạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội của chúng ta (Anh quốc) ngày nay đã có sẵn trong Giáo hội Phật giáoẤn Độ cách đây hơn hai ngàn năm về trước.” (And it may come as a surpose to many to learn that in the Assemblies of the Buddhism in two thousand years and more age to be found the rudiments of our own Parliamentary practice of the present day.)([5])
Tinh thầnLục hoà và Tứ nhiếp là một nếp sống đẹp để xây dựngđời sốngcộng đồng. Sáu nguyên tắc sống hoà hợp này được xem như là bản hiến pháp đầu tiên trong Phật giáo, với tinh thần thoả thuận chung rất cởi mở, tự do và ý thức. Thiết nghĩ, nguyên lý sống này không riêng gì nếp sống đạo mà nó thích ứng trong mọi gia đình, học đường và bất cứ hoạt động tổ chức xã hội nào. Cho dù các nhà xã hội học có vận dụng phương thức hiện đại về tổ chức như thế nào đi chăng nữa cũng không sao vượt qua được các nguyên tắc trình bày trên. Cách đây trên 25 thế kỷ về trước mà Phật giáo đã có một tinh thầnxã hội mang tính hiện đại như vậy. Ngót 3 ngàn năm qua mà tinh thầntruyền thốngcộng đồngTăng già này vẫn còn được bảo lưu rất tốt ở các nước truyền cũng như Bắc truyền Phật giáo.
[1] Tăng chi VI, phẩm gia chủ, bd. HT, Thích Minh Châu, 1992, tr. 582-583
[2]Trung bộ III, số 104, Kinh Sāmagām; Trung bộ I, Kinh Kosambi; Kinh Tăng chi IIB, số 157, K. Hoàng lô viên
[3] Vinaya Text, Pātimokkha, Motilal Banarsidass, 1968, P. 68; Phật dạy: "Tỳ kheo hội họp có 2 việc cần phải làm: nói năn như pháp (P:Saṅkilesadhammo samāno pariyesati) hay im lặngnhư pháp (P:Saṅkilesadhammañ-ñeva pariyesati)" (Maj.I, No.26
[4] Majjhima I, No 26, Ariyapariyesanasuttaṃ, Pāli Text Society, 1954, P. 205
[5] Teachings of the Buddha, edited by Jack Kornfield, , 1996, PP. 75-76
Đạo nghiệp là sự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
Đức PhậtDược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiênchúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinhgiác ngộ.
Về cơ bản, lý duyên khởigiải thoátmô tảtâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầucho đến lúc cuối.
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quanmật thiếtvới nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữPhật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vậtvô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tửĐại Thừa.
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệduyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hộinhân bảnđạo đức.
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
Kính lễThích Ca Mâu NiThế Tôn
Nay con đem tâm phàm phusuy diễnthánh pháp
Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này
Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biếthạn chế của mình.
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cáchthực tiễn đối với sự tu tậpcông án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tậpcông án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
Có hai hình ảnhquen thuộc gợi lên ý tưởngbiến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba.
Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễThế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìn và truyền thừa qua nhiều thế hệ.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.