Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tính Cộng Đồng Trong Tăng Đoàn Đức Phật

30 Tháng Tám 202108:17(Xem: 3638)
Tính Cộng Đồng Trong Tăng Đoàn Đức Phật
Tính Cộng Đồng Trong Tăng Đoàn Đức Phật

Thích Nhật Hiếu

Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

        I.  
DẪN NHẬP:

Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN). Đó là cộng đồng Tăng già (Saṇgha); bao gồm cả Phật tử tại gia (Gahapati). Cộng đồng này được gọi chung là “Tứ chúng” (s:Catasraḥ parṣa; p: Catasso parisā): Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,  cư sĩ, Nữ cư sĩ (p: Bhikkhu, Bhikkhuni, Upāsaka, Upāsīka). Một cộng đồng không xây dựng trên nguyên tắc phục tùng uy quyền của thần linh, Giáo chủ, thủ lĩnh, hoặc pháp định, mà được xây dựng trên ý thức của mỗi cá nhân với 4 nguyên tắc sống hòa nhập (Tứ nhiếp pháp) và 6 nguyên tắc sống hoà hợp (Lục hoà cộng trụ), thích ứng với mọi lợi ích cho cá nhânlợi lạc cho cộng đồng.

        II.  NỘI DUNG:

              
a. Nguyên tắc hoàn thiện con người cá nhân:
         Đức Phật cũng đã khẳng định mối tương quan trong cuộc sống cộng đồng, cá nhân là một trong những thành tố tế bào xã hội, xã hội là tổng thể bao gồm mọi thành tố cá nhân; giáo dục cá nhânmục tiêu chiến lược để hoàn thiện xã hội. Tứ nhiếp pháp (四攝法四攝事s:Catvāri-saṃgrahavastūni; four all-embracing {bodhisattva} virtues)([1]) là 4 nguyên tắc đã được đức Phật vận dụng cách đây ngót 3 ngàn năm qua; các nguyên tắc giáo dục con người cá nhân hòa nhập vào cộng đồng một cách an toànhoàn hảo, cũng như có thể ứng phó và hóa giải mọi nguy cơ tác động khách quan:
                 1. Bố thí (布施; p-s:Dāna; giving what others like, in order to lead them to love and receive the truth):
         Cùng sống trong cộng đồng xã hội sẵn sàng chia sẻ những nỗi khó khăn với người khác như nhường cơm, xẻ áo, thuốc men,… khi người nghèo khó (Tài thí); dạy dỗ, giúp ý kiến, truyền trao kiến thức,… khi người khó khăn về hiểu biết (Pháp thí); an ủi, chở che, bao dung, tha thứ,… khi người khủng hoảng tinh thần (Vô uý thí). Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 4 trong lục hòa.
                 2.  Ái ngữ (愛語; p:Priyavāditā; s:Arthacaryā; affctionate, speech, with the same purpose):
         Cùng sống trong cộng đồng xã hội biết lắng nghe và chia sẻ niềm vui cho người, và làm vơi bớt những nỗi khổ đau của người bằng sự khích lệ lòng tự tin và hy vọng. Người đệ tử Phật biết im lặng đúng thời và nói năng đúng lúc; lời nói thật sự có sức thuyết phục, có giá trị xây dựng hiểu biết và hoà giải. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 3 trong lục hòa.
                 3.  Lợi hành (利行; p-s:Arthakṛtya, conduct profitable to others, with the same purpose):
Cùng sống trong cộng đồng xã hội biết nhường nhịn và san sẻ lẫn nhau những gì thu hoạch được từ vật chất cho đến tinh thần; tự suy nghĩ một cách hiểu biết: Tâm lý tham lam, bỏn xẻn muốn thâu hết vào mình tất cả những lợi lộc là tự làm khổ mình. Vì rằng: “Đa thọ là đa khổ”, không lợi ích gì cho hiện tại, mà còn làm trở ngại cho sự tiến bộ tâm linh trên lộ trình giác ngộ giải thoát mà thôi. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 4 trong lục hòa.
                 4.  Đồng sự (同事; p-s:Samānārthatā; co-operation with and adaptation of oneself to others, to lead them into the truth):
         Cùng sống trong cộng đồng xã hội biết san sẻ những công việc, những nỗi nhọc nhằn với đồng nghiệp, Pháp lữmọi người; biết dấn thân, hoà đồng với mọi người trong đời sống cộng đồng; không lập dị, quan liêu, kiểu cách mà biết nhập cuộc cùng làm, cùng ăn, cùng ở, cùng vui chơi giải trí với mọi người. Tính chất này ứng với nguyên tắc thứ 2 trong lục hòa.
          b.  Nguyên tắc hoàn thiện cuộc sống cộng đồng:
         Đoàn thể đệ tử của đức Phật có 2: Cộng đồng Tăng già (Saṇgha) và cộng đồng Phật tử tại gia (Gahapati). Một cộng đồng không xây dựng trên nguyên tắc uy quyền của giáo chủ hoặc pháp định, mà được xây dựng trên ý thức của mỗi cá nhân. Đó là sáu nguyên tắc sống hòa hợp (Lục hoà: 六和敬 (六和) s:Saḍsāramyadharma; The six points of reverent harmony or unity in a monastery or convent)([2]) đoàn kết trong tình thân thương đầy thánh thiện của cộng đồng những người đệ tử của đức Phật tại gia cũng như xuất gia. Đơn cử một số nguyên tắc đoàn thể sống trong hòa hợp mà trong Phật giáo đã áp dụng có bề dày lịch sử ngót 3 ngàn năm qua.
                 1. Hoà đồng trên nguyên tắc kỷ luật (Giới hòa đồng tu: 戒和同修; moral unity in observing the commandments):
         Cộng đồng đệ tử Đức Phật giữ gìn Giới luật không để bị nhiễm ô, sứt mẻ đối với những người bạn đồng tu cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau. Như vậy, nguyên tắc này được xem là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhânthịnh vượng cho tổ chức. Đức Phật dạy: Phật tử tại gia giữ 5 giới; Xuất gia như: Sa di, Sa di ni giữ 10 giới; Tỳ kheo giữ 250 giới; Tỳ kheo ni giữ 348 giới,v.v...
Mục tiêu giá trị cần phải đạt được của tất cả mọi người con Phật chúng tagiải thoát tâm linh. Lộ trình đưa đến mục tiêu ấy là Trì giới. Nó giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn, thân chứng chân lý giải thoát. Giới luật là hàng rào bảo vệ an toàn phẩm hạnh nhân cách, ngăn ngừa điều sai trái, dứt trừ điều xấu xa (phòng phi chỉ ác). Hơn nữa, Giới luật của Phật giáo chính là nền luân lý, đạo đức; ngoài việc thánh thiện hoá cho cá nhân ra, còn được xem là những nguyên tắc thăng hoa cho cộng đồng xã hội. Theo tinh thần Duyên sinh vô ngã, Phật giáo cho rằng, cá nhân không thể tách rời cộng đồng, và cộng đồng không ngoài cá nhân; vì vậy, sự trong sạch tư cách của cá nhân chính là sự thăng hoa và thịnh vượng của cộng đồng tổ chức.
         Chúng ta cũng biết, quốc gia không luật pháp, quốc gia suy vong; tổ chức không kỷ luật, tổ chức ô hợp; tôn giáo không giáo luật, tôn giáo tục lậu. Cũng vậy, Phật giáo là một tổ chức cộng đồng có một nền giới luật chặt chẽ và nghiêm minh, nhưng có một tính chất ưu việt hơn các tổ chức xã hội cũng như tôn giáo khác là Giới luật không xem như là một Giáo luật hay Tín điều đầy uy quyền do một đấng tối cao nào, hoặc cơ quan chuyên chế pháp định nào đó ban hành, mà nó được xem là một bản thoả thuận chung của cộng đồng đệ tử của Đức Phật. Thời Đức Phật còn tại thế, sự kiết giới và chế định luật nghi, Ngài không áp đặt, mà là dựa trên nguyên tắc “Tùy phạm tùy kiết”, nghĩa là trong thực tế những sự kiện nào đã gây ra sự bất ổn, bất hạnh cho cá nhâncộng đồng thì Đức Phật dựa vào đó mà chế định ra Giới luật. Do đó, Giới luật được xem là hàng rào, là thành luỹ bảo vệ an toàn cho cuộc sống phạm hạnh, cuộc sống đầy thánh thiện, giúp cho mọi người Phật tử Tại gia cũng như Xuất gia chuyển hoá phiền não, khổ đau để thoát ly mọi hệ lụy của tham lam, sân hận, si mê,… hướng đến thanh tịnh, từ bi và trí giác; nhằm đem lại sự thanh bìnhan lạc cho cuộc đời. Vì vậy, mọi người đệ tử của Đức Phật phải giữ gìn cẩn thận, xem đó như con thuyền vượt bể khổ trần gian nhắm bờ giải thoát.
                 2. Hoà đồng trên nguyên tắc hành động (Thân hòa đồng trụ: 身和同住; Bodily unity in form of worship):
         Mọi hoạt động, hành vi trong cộng đồng đệ tử Đức Phật đều hợp nhất: đi cùng đi, ở cùng ở, ăn cùng ăn, làm cùng làm, nghỉ cùng nghỉ,… không lập dị kiểu cách, không phách lối quan liêu, biết hòa mình, đồng sự đối với mọi người, không sống đóng khung, cô lập, để rồi gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm giao tình cảm đối với mọi Pháp lữ, Đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành mối tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau. Như vậy, nguyên tắc này được xem tương ứng với “Đồng sự nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp, và cũng là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhânthịnh vượng cho tổ chức.
                 3. Hoà đồng trên nguyên tắc ngôn luận (Khẩu hòa vô tránh口和同爭; Oral unity in chanting):
         Luôn dùng lời ái ngữ dễ mến, tạo niềm tin yêu thật sự cho người nghe: “Không nói lời lọc lừalời nói thành thật; không nói lời thêu dệt mà nói lời ngay thẳng; không nói lời hung ác mà nói lời từ ái; không nói lời gây chia rẽ và hận thù mà nói lời mang ý nghĩa xây dựnghòa giải;…”; không gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm giao tình cảm đối với những pháp lữ, đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng,… để tạo thành tương thân, tương ái, tương kính và hòa hợp lẫn nhau, nhất trí không tranh luận; ngoài ra, với ý nghĩa của Pháp hòa này, Đức Phật còn dạy về nguyên tắc để dập tắt sự tranh cải (Thất pháp diệt tránh)([3]) một cách rất tinh tế; và Ngài còn dạy thêm về sự hợp mặt của Tăng đoàn nếu có thì nên “Nói năng như chánh phápim lặng như chánh pháp”([4]). Ở đây, nguyên tắc thứ 3 này được xem tương ứng với “Ái ngữ nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp. Như vậy, nguyên tắc này được xem là bí quyết cho sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhânthịnh vượng cho tổ chức.
                 4. Hoà đồng trên nguyên tắc quyền lợi (Lợi hòa đồng quân: , or 施和同均;  Economic unity in community of goods, deeds, studies, or charity):
         Như trong truyền thống tổ chức Tăng đoàn Phật giáo. Những Pháp lữ đồng tu trong tổ chức truyền thống cộng đồng đệ tử Đức Phật, mọi quyền lợi từ vật chất cùng như tinh thần đều cùng nhau san sẻ đồng đều bình đẳng với nhau; biết nhường nhịn lẫn nhau, không so đo, tính toán; không ganh ghét đố kỵ, tư  hiềm tranh quyền đoạt lợi.
Với tinh thần “duyên sinh vô ngã”, con người không một thứ gì là của riêng mình, mà là một sự hòa hợp duyên sinh do nhiều yếu tố tác thành. Con ngườixã hội, xã hộicon người. Chính vì vậy mà mấy ngàn năm qua kể từ sau khi Đức Phật diệt độ, Tăng đoàn của đức Phật vẫn giữ được phong độ xuất thế  của mình trong vai trò “Vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì lợi lạc thế gian mà làm cán cân đạo lý cho ngàn đời”. Cộng đồng đệ tử xuất gia của Đức Phật là những người Vô sản, những người không gia đình (s:Pravraiyā; p: Pabhajjā), không riêng tư. Những người từ bỏ tất cả, để rồi đến với tất cả. Tóm lại, “Phụng sự chúng sinhcúng dường Chư Phật”. Cái lợi ở đây, Phật giáo xem “lợi tha hơn là tự lợi, vị tha hơn là vị kỷ, vì người hơn là vì mình”. Vì vậy, tính bao dung, hy sinhphụng sự được xem là tính chất đặc trưng của Phật giáo. Ở đây, tính chất thứ 4 này được xem tương ứng với “Bố thí nhiếp” trong Tứ nhiếp pháp.
         Chừng mực nào đó, có thể nhân rộng mô hình sống mang tính cộng đồng trên áp dụng vào cuộc sống cộng đồng xã hội. Có thể hiểu quyền lợi cộng đồng xã hội ở đây được xác lập trên các nền tảng cơ bản: quyền được bảo hộ luật pháp, quyền học tập trau dồi tri thức, hành nghề làm ăn hợp pháp, quyền được ứng-bầu cử thể hiện nguyện vọng & xây dựng xã hội cộng đồng, quyền hưởng trợ cấp an sinh xã hội,v.v… Quyền lợi này được phân đều cho mọi người trong xã hội, không dành riêng cho giới nào hay cá nhân ai.
                 5.  Hoà đồng trên nguyên tắc ý chí (Ý hòa đồng duyệt: 意和同悅; Mental unity in faith):
         Trong cộng đồng đệ tử của Đức Phật, sự hòa hợp ý chí, tâm tư và nguyện vọng, thâm tình đồng môn hòa mục chung sống được xem là vấn đề tối trọng. Một khi một người đã từ bỏ thân thuộc trong gia đình để đi xuất gia, thì còn niềm vui nào hơn là niềm vui đoàn thể Pháp lữ, cùng san sẻ bùi ngọt, vui buồn với nhau. Nhiều người cho rằng, những người đi tu là những người yếm thế, chán đời, lánh tục,… là những kẻ vô hại nhưng cũng là những người bất lợi cho xã hội; hơn thế nữa, có người cho rằng họ là những kẻ bỏ đi. Hàng ngũ thầy tu Phật giáo là những thành phần phi sản xuất. Thế nhưng, họ có biết rằng những con người như vậy đã suốt cuộc đời sống hy sinh, sống quên đi hạnh phúc cá nhân của mình để giữ lấy lý tưởng phạm hạnh, giữ lấy đạo lý, lẽ phải để soi sáng cho đời, như vậy mà bị đánh giálãnh đạm, lánh đời,… là bất lợi cho xã hội được hay sao?!! Có biết chăng, bên trong cánh cửa nhà Phật là một thế giới của những con người ngày đêm nỗ lực không ngừng đào luyện tài năng, tô bồi phẩm hạnh để xứng đáng bậc thầy đưa đường chỉ lối cho trời người. Thật vậy, ngót 3 ngàn năm qua, mái chùa, cửa Phật luôn là nơi cưu mang các bậc anh tài, khai phóng tinh thần dân tộc trong buổi đầu lập quốc, là nơi chở che hồn thiêng dân tộc trong buổi quốc loạn thời suy. Nếu không phải là nơi tổ chức hội đoàn có truyền thống giáo dục chặt chẽ thì làm sao Phật giáo Việt  ghi được những trang sử vàng sáng ngời như vậy. Từ ấy, chúng ta nhận thấy, tổ chức Phật giáo không phải là tổ chức ồ ạt về số đông, nhộn nhịp về cơ cấu, chặt chẽ về ban ngành,…; tuy nhiên, đây là tổ chức đoàn thể mang tính tự ý thức giác ngộ, sống đời tỉnh thức, với tinh thần tự giác, không mang tính cưỡng chế pháp định hoặc giáo quyền nào. Với ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm về bất cứ những hành vi, hành động tốt hay xấu, thiện hay ác do chính mình tự tạo ra. Do đó, ở điểm này Phật giáo được hiểu là một lẽ sống mang tính nhân bản hơn là một Tôn giáo. Hơn nữa, nếu ở lãnh vực Tôn giáo thì Phật giáo mang tính Tôn giáo của từ bi, cứu khổ, của sự sống tâm linh hơn là Tôn giáo của thần linh mặc khải. Còn nếu Phật giáo được hiểu là một tổ chức thì được hiểu là tổ chức của những người sống đời sống tỉnh thức, trí tuệtừ bi hơn là một hội đoàn thông thường luôn mong muốn mình lớn mạnh, vươn cánh tay bạch tuộc bành trướng, thị oai, thao túng, cạnh tranh, trấn áp, lấn lướt, như tất cả những hội đoàn đời thường khác.
Có thể nói: “Phật giáo là cộng đồng tổ chức của những người tỉnh thức, vui sống trong tình thân hữu, không màn đến những vấn đề được mất, hơn thua,… vui với những niềm vui của người, buồn với những cái đau thương của đời; không thấy đâu là ranh giới giữa người và ta; không ranh giới trên phương diện hình thức lãnh thổ quốc gia, gia đình, tổ chức,… không cả ranh giới ý thức hệ lẫn tâm hồn, trãi dài cả pháp giới mênh mong trong vô lượng vô biên vi trần quốc độ.”
                 6. Hoà đồng trên nguyên tắc nhận thức (Kiến hòa đồng giải: 見和同解; Doctrinal unity in views and explanations):
Thành tựu mọi tri kiến, hợp nhất mọi nhận thức trong cộng đồng đệ tử Đức Phật, không những nâng đỡ nhau về đời sống vật chất mà còn giúp nhau trong cuộc sống tinh thần về tri thức, tri kiếnhiểu biết. Đạo Phật được nhìn nhận là đạo của trí tuệtừ bi; chính vì vậy mà ngay cả Đức Phật, Ngài cũng không độc quyền chân lý giác ngộ mà Ngài dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”; thành Phật trước hoặc thành Phật sau đều cùng một ý nghĩagiác ngộ chân lý, thoát ly mọi hệ lụy khổ đau của cuộc đời. Mọi Phật tử luôn luôn với tâm nguyện: “Đệ tử và tất cả chúng sinh đều trọn thành Phật đạo”. Đây là nguyên lý cuối cùng của Lục hòa cộng trụ, nhưng cũng là nguyên lý bao quát nhất trong tất cả các nguyên lý trên trong nguyên tắc ứng xử trong đời sống cộng đồng đệ tử của Đức Phật.

         III. KẾT LUẬN:

         Nhìn chung, những nguyên tắc sống trên (Tứ nhiếp pháp & Lục hoà) là hành vi ứng xử cao thượng của một nhà lãnh đạo đối với cộng đồng, được xem là bí quyết để thu phục nhân tâm. Điều đó đã chứng minh bằng sự thành công của Cư sĩ Hattaka trong vai trò lãnh đạo chúng cư sĩ năm trăm người. Đặc biệt, chúng ta không thể không nghiêng mình bái phục khả năng xuất chúng trong việc vận dụng và điều hành cộng đồng Giáo hội Tăng già một cách thông suốt, chặt chẽ, tinh nghiêm, tự giác, nhất là tính dân chủ rất cao.
Như ông Lord Zetland, một học giả người Anh đã nhận xét: “Và rất nhiều người ngạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội của chúng ta (Anh quốc) ngày nay đã có sẵn trong Giáo hội Phật giáo Ấn Độ cách đây hơn hai ngàn năm về trước.” (And it may come as a surpose to many to learn that in the Assemblies of the Buddhism in  two thousand years and more age to be found the rudiments of our own Parliamentary practice of the present day.)([5])
         Tinh thần Lục hoà và Tứ nhiếp là một nếp sống đẹp để xây dựng đời sống cộng đồng. Sáu nguyên tắc sống hoà hợp này được xem như là bản hiến pháp đầu tiên trong Phật giáo, với tinh thần thoả thuận chung rất cởi mở, tự doý thức. Thiết nghĩ, nguyên lý sống này không riêng gì nếp sống đạo mà nó thích ứng trong mọi gia đình, học đường và bất cứ hoạt động tổ chức xã hội nào. Cho dù các nhà xã hội học có vận dụng phương thức hiện đại về tổ chức như thế nào đi chăng nữa cũng không sao vượt qua được các nguyên tắc trình bày trên. Cách đây trên 25 thế kỷ về trước mà Phật giáo đã có một tinh thần xã hội mang tính hiện đại như vậy. Ngót 3 ngàn năm qua mà tinh thần truyền thống cộng đồng Tăng già này vẫn còn được bảo lưu rất tốt ở các nước  truyền cũng như Bắc truyền Phật giáo.


[1] Tăng chi VI, phẩm gia chủ, bd. HT, Thích Minh Châu, 1992, tr. 582-583

[2] Trung bộ III, số 104, Kinh Sāmagām; Trung bộ I, Kinh Kosambi; Kinh Tăng chi IIB, số 157, K. Hoàng lô viên

[3] Vinaya Text, Pātimokkha, Motilal Banarsidass, 1968, P. 68; Phật dạy: "Tỳ kheo hội họp có 2 việc cần phải làm: nói năn như  pháp (P:Saṅkilesadhammo samāno pariyesati) hay im lặng như pháp (P:Saṅkilesadhammañ-ñeva pariyesati)" (Maj.I, No.26

[4] Majjhima I, No 26, Ariyapariyesanasuttaṃ, Pāli Text Society, 1954, P. 205

[5] Teachings of the Buddha, edited by Jack Kornfield, , 1996, PP. 75-76
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6148)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3112)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3312)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3247)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3307)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4563)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5223)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3880)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3849)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3212)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4146)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5055)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3519)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6750)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3225)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3106)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2968)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5871)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4640)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3503)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2904)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3316)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4432)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5731)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6645)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3732)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4542)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4617)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3978)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3412)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4633)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6062)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5849)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3643)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4693)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4464)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4533)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8225)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3928)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5728)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5215)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6858)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6184)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5999)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5811)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6303)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6795)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5577)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6400)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5426)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6079)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant