Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

23 Tháng Mười Một 202119:53(Xem: 3552)
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

 Thiền Sư S.n. Goenka
Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Why do you give so much importance to the observation of normal respiration? – Tại sao ngài nhấn mạnh việc quan hơi thở tự nhiên?

Goenkaji: Because the Buddha wanted you to. He is very clear that one must observe the breath as it is-yathabhuta. If it is long, you are aware, “it is long”; if it is short, you are aware, “it is short”. Yathabhuta. If you make your respiration unnatural, artificial, you will give more attention to change the respiration according to your wishes. Your attention will not be with the reality as it is, but with something that you have created.

Goenkaji: Bởi vì đó là ý của Đức Phật. Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Yathabhuta. Nếu hơi thở của bạn không tự nhiên, bạn sẽ cố ý để thay đổi hơi thở theo mong muốn của bạn. Sự cố ý đó của bạn sẽ không phải là với thực tế như nó đang là, mà là một thứ gì đó mà bạn tự tạo ra.

 

Therefore, we emphasize it must be always natural breath-as it comes in naturally, as it goes out naturally. If it is long, just be aware that it is long. Don’t try to make it short. If it is short, just be aware that it is short. Don’t try to make it long. If it is going through the right nostril, then observe that it is going through the right nostril. If it is going through the left nostril, then observe it through the left nostril. When it passes through both the nostrils, observe the flow through both the nostrils.

 

Do đó, chúng tôi nhấn mạnh nó phải luôn luôn là hơi thở tự nhiênđi vào một cách tự nhiên, đi ra một cách tự nhiên. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài. Đừng cố làm chậm hơi thở. Nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Đừng cố kéo dài hơi thở. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên phải, hãy quan sát rằng nó đang đi qua lỗ mũi phải. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên trái, hãy quan sát nó đi qua lỗ mũi trái. Nếu hơi thở đi qua cả hai lỗ mũi, hãy quan sát hơi thở qua cả hai lỗ mũi.

 

Then you are working according to the instructions of the Enlightened One. Don’t try to interfere with the natural flow of the breath. And if you find that the mind is wandering too much and you cannot feel the natural breath, then you may take a few-only a few-intentional breaths, slightly hard breaths, so that you can bring your mind back to the observation of the breath. You have to keep in mind that your aim is to feel the natural breath. However soft it is, however subtle it is, you must be able to feel it. That is the aim.

 

Hãy làm theo hướng dẫn của Bậc giác ngộ. Đừng cố can thiệp vào dòng chảy tự nhiên của hơi thở. Nếu bạn thấy rằng tâm trí đang lang thang quá nhiều và bạn không thể cảm nhận được hơi thở tự nhiên, thì bạn có thể lấy một vài hơi – chỉ một vài – hơi thở có chủ ý, hơi thở mạnh một chút, để bạn có thể đưa tâm trí trở lại việc quan sát hơi thở. Bạn phải ghi nhớ rằng mục đích của bạn là cảm nhận hơi thở tự nhiên. Tuy hơi thở rất nhẹ, tuy hơi thở rất tinh tế, bạn phải cảm nhận nó. Đó là mục tiêu của chúng ta.

 

Why do you want us to keep our attention at the entrance of the nostrils and above the upper lip while practicing Anapana? – Tại sao ngài muốn chúng tôi đưa sự chú tâm vào bên ngoài cửa mũi và trên môi trên trong khi thực hành Anapana?

 

Goenkaji: Because again, it is a very clear instruction given by the Enlightened One. In Patisambhidamagga, he clearly says that you must be aware of the incoming breath, the outgoing breath, and mukha – this area above the mouth. He calls it mukhanimitta. It is clearly explained in Patisambhidamagga and in Vibhanga, what is mukhanimitta: it means nasikagge, the front portion of the nose at the entrance of the nostrils. Also, the Buddha says that it must be Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara means above; ottha is lip; and majjimappadese is the middle portion. And in the Mahasatipatthana sutta, he says, establish your awareness here, parimukham satim upatthapetva. Sati means awareness; parimukham means the area above the lips.

 

Goenkaji: Đó là một chỉ dẫn rất rõ ràng được đưa ra bởi Bậc giác ngộ. Trong cuốn Patisambhidamagga, ngài nói rõ ràng rằng bạn phải nhận thức được hơi thở đi vào, hơi thở đi ra và mukha – ở khu vực trên môi trên. Ngài gọi đó là mukhanimitta. Nó được giải thích rõ ràng trong Patisambhidamagga và Vibhanga, mukhanimitta là: phần phía trước cửa mũi. Ngoài ra, Đức Phật nói rằng đó phải là Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara có nghĩa là ở trên; ottha là môi; và majjimappadese là phần giữa. Và trong bài kinh Mahasatipatthana, ngài nói, hãy đưa sự chú tâm của bạn vào đó, parimukham satim upatthapetva. Sati có nghĩa là nhận thức; parimukham có nghĩa là khu vực trên môi trên.

 

The Buddha is so clear in his instructions. We cannot deviate from his instructions. And as you practice, it becomes very clear why the Buddha chose this small area. This is the area over which the incoming breath and the outgoing breath must pass. The incoming and outgoing breath touches the area at the entrance of the nostrils and above the upper lip. That is why he wanted you to keep your attention here. For those with long noses, the breath is likely to touch the entrance of the nostrils. For those with short noses, it usually touches the area above the upper lip. So he chose this area-either at the entrance of the nostril, nasikagge, or the middle part of the upper lip.

 

Đức Phật chỉ rất rõ ràng. Chúng ta không thể làm khác đi. Và khi bạn thực hành, bạn sẽ hiểu tại sao Đức Phật chọn khu vực nhỏ này. Đây là khu vực mà hơi thở đi vào đi ra. Hơi thở đi vào đi ra chạm vào khu vực cửa mũi và phía trên môi trên. Đó là lý do tại sao ngài muốn bạn giữ sự chú tâm của bạn ở đây. Đối với những người có mũi dài, hơi thở có thể chạm vào lối vào của cửa mũi. Đối với những người có mũi ngắn, nó thường chạm vào khu vực phía trên môi trên. Vì vậy, ngài đã chọn khu vực này – ở khu vực cửa mũi, chóp mũi, hoặc phần giữa của môi trên.

 

The Buddha does not want us to imagine that the breath is coming in or the breath is going out, you must actually feel it. When you are attentive, you can feel its touch somewhere in this area.

 

Đức Phật không muốn chúng ta tưởng tượng hơi thở đi vào hoặc hơi thở đi ra, bạn phải thực sự cảm nhận được nó. Khi bạn chú ý, bạn có thể cảm thấy cảm giácđâu đó trong khu vực này.

 

For a very new student, we say even if you feel the breath inside the nostrils, it is okay. But ultimately you have to be aware of the touch of the breath in this area. Why? Because for samadhi, concentration of mind, citta ekaggata [one-pointedness of the mind] is very important. For a new student, a bigger triangle including the whole area of the nose is okay. But within a day or two, the student is asked to observe a smaller area. It becomes very clear, as you keep on progressing on the path given by the Buddha, that the area of concentration must be as small as possible.

 

Đối với một thiền sinh mới, ngay cả khi bạn cảm thấy hơi thở bên trong lỗ mũi thì vẫn không sao cả. Nhưng cuối cùng bạn phải nhận thức được sự xúc chạm của hơi thở trong khu vực này. Tại sao? Bởi vì đối với samadhi, sự định tâm, citta ekaggata (giữ tâm an trụ tại một điểm) là rất quan trọng. Đối với một thiền sinh mới, thì bạn có thể quan sát khu vực tam giác lớn hơn ở xung quanh mũi. Nhưng sau một hoặc hai ngày, thiền sinh được yêu cầu quan sát một khu vực nhỏ hơn. Điều này trở nên rất rõ ràng, khi bạn tiếp tục tiến bộ trên con đường do Đức Phật chỉ dạy, khu vực tập trung phải càng nhỏ càng tốt.

 

It also becomes clear that the object of concentration must be very subtle. That is why when the mind is wandering too much, you are allowed to take a few hard breaths, but after that, you must come back to the natural breath. And as your mind gets concentrated, the breath will become softer and softer, finer and finer, shorter and shorter. You won’t have to make any effort. It happens naturally. Sometimes the breath becomes so short, so fine, like a thin thread, that it feels as if immediately after coming out it makes a U-turn and enters the nostrils again. So when the area is small, the object of concentration is very subtle, and you continue without interruption, the mind becomes very sharp.

 

hiển nhiên đối tượng của sự tập trung phải rất tinh tế. Đó là lý do tại sao khi tâm trí đi lang thang quá nhiều, bạn được phép hít một vài hơi thật mạnh, nhưng sau đó, bạn phải trở lại với hơi thở tự nhiên. Và khi tâm trí của bạn được tập trung, hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhàng, mềm mại hơn, tinh tế hơn, ngắn hơn và ngắn hơn nữa. Bạn không cần phải gắng gượng ép. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Đôi khi hơi thở trở nên rất ngắn, rất vi tế, giống như một sợi chỉ mỏng, cảm giác như thể ngay lập tức sau khi đi ra, nó liền quay lại vào lỗ mũi một lần nữa. Vì vậy, đối với một khu vực nhỏ hơn, sẽ dẫn đến sự tập trung rất tinh tế, và nếu tiếp tục không bị gián đoạn, tâm trí trở nên rất nhạy bén.

 

The Buddha was sabbaññu – he knew everything so clearly. There is an important nerve centre in this area. When your mind is sharp and you are aware of this area, your mind becomes so sensitive that you start feeling some sensation in this area. The purpose of Anapana, the purpose of samadhi, is to take the next step of Vipassana. Vipassana is not Vipassana if you don’t feel sensations.

 

Đức Phật là sabbaññu (Bậc Toàn Giác) – Ngài biết mọi thứ rất rõ ràng. Có một trung tâm thần kinh quan trọng tại khu vực này. Khi tâm trí của bạn sắc bén và bạn nhận thức được khu vực này, tâm trí của bạn trở nên nhạy bén đến mức bạn bắt đầu cảm thấy một số cảm giác tại khu vực này. Mục đích của Anapana (quan sát hơi thở ra vào), mục đích của Samadhi, là tạo nền tảng cho Vipassana. Vipassana không phải là Vipassana nếu bạn không cảm nhận được cảm giác.

 

Therefore, he taught us in a very systematic manner. Start on a small area with the natural breath. The breath will become subtler and subtler; the mind will become sharper and sharper. This area will become very sensitive and you will start feeling sensations. Everywhere around the world, people coming to the courses and practicing the technique given by the Enlightened One, start feeling sensations in this area on the second or third day. The Buddha taught the technique, the path, very systematically. We don’t want to deviate from what he taught.

 

Ngài đã dạy chúng ta một cách rất có hệ thống. Bắt đầu tại một khu vực nhỏ với hơi thở tự nhiên. Hơi thở sẽ trở nên tinh tếtinh tế hơn; tâm trí sẽ trở nên sắc bén và sắc bén hơn. Khu vực này sẽ trở nên rất nhạy bén và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy những cảm giác. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, mọi người đến các khoá thiền này và thực hành kỹ thuật được đưa ra bởi Bậc giác ngộ, và họ bắt đầu cảm thấy những cảm giác ở khu vực này vào ngày thứ hai hoặc thứ ba. Đức Phật đã dạy kỹ thuật, con đường này một cách rất có hệ thống. Chúng tôi không muốn đi chệch khỏi những gì Đức Phật đã dạy.

 

Coming back to the first question of why we work with the natural breath – there are other techniques especially in India where one controls the breath, for example, the technique of Pranayama. One takes a deep breath and stops for some time; one exhales and stops for some time. We don’t condemn other techniques. We understand that Pranayama is good for physical health. But the Buddha wanted us to use the awareness of the natural breath to reach the next step of feeling sensations. This controlled breathing, Pranayama, is not suitable because it is artificial breath.

 

Quay trở lại câu hỏi đầu tiên về lý do tại sao phải là với hơi thở tự nhiên – có những kỹ thuật khác đặc biệt là ở Ấn Độ nơi người ta điều khiển hơi thở, ví dụ, kỹ thuật của Pranayama. Người ta hít một hơi thật sâu và dừng lại một lúc; thở ra và dừng lại một lúc. Chúng tôi không lên án các kỹ thuật khác. Chúng tôi hiểu rằng Pranayama tốt cho sức khỏe thể chất. Nhưng Đức Phật muốn chúng ta sử dụng nhận thức về hơi thở tự nhiên để đạt được bước tiếp theo là cảm nhận cảm giác giác. Hơi thởkiểm soát này, Pranayama, không phù hợp vì đó là hơi thở nhân tạo.

 

Buddha wanted us to observe natural breath because it takes us to the stage where we can practice Vipassana. Those who want to practice Pranayama for health reasons, let them practice it separately. Don’t connect it with Vipassana. When you practice Vipassana, natural breath is important, yathabhuta, as it is.

 

Đức Phật muốn chúng ta quan sát hơi thở tự nhiên vì nó đưa chúng ta đến giai đoạn mà chúng ta có thể thực hành Vipassana. Những người muốn thực hành Pranayama vì lý do sức khỏe, hãy để họ thực hành theo cách của họ. Đừng kết nối nó với Vipassana. Khi bạn thực hành Vipassana, hơi thở tự nhiên rất quan trọng, yathabhuta, như nó đang là.

 

Why should we work with respiration only? – Tại sao chúng ta chỉ nên làm việc với hơi thở?

 

Goenkaji: Respiration is the truth. Respiration is related to your mind and matter, and you are here to make an analytical study of mind and matter. So you start with respiration, and then go to a deeper level of mind and matter.

 

Goenkaji: Hơi thởsự thật. Hơi thởliên quan đến tâm trí và cơ thể của bạn. Bạn ở đây để thực hiện một nghiên cứu phân tích về tâm trí và cơ thể. Vì vậy, bạn bắt đầu với hơi thở, và sau đó đi đến một mức độ sâu hơn của tâm trí và cơ thể.

Nguồn VRIDhamma.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8576)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5293)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5856)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7498)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6404)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5996)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4787)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5730)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5908)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6155)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6638)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5966)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7088)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6693)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4830)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4962)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7746)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9851)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5355)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6452)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5458)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5873)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6435)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5715)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7080)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6306)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10686)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6697)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6206)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6759)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6154)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6526)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5755)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7579)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6269)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9674)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4079)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6403)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4194)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4343)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4810)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5374)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5328)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5860)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6823)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5593)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4540)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5348)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5036)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4397)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6901)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4650)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8451)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7248)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8404)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7561)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant