Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Huyễn Làm Việc Huyễn

26 Tháng Mười Một 202120:07(Xem: 2359)
Người Huyễn Làm Việc Huyễn

NGƯỜI HUYỄN LÀM VIỆC HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

 
Công Đức Chiêm Bái Phật Tích


Người thực hành Trí huệ toàn thiện (Bát nhã ba la mật) quán thấy tất cả pháp là Không, như mộng, như huyễn, như hóa… cho đến chúng sanh cũng rốt ráo bất khả đắc:

 

Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm.

Vì sao thế? Vì người làm (tác giả) bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi. Vì sao thế? Vì sắc chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, thọ tưởng hành thức chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mắt chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, cho đến ý chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, làm nhân duyên sanh thọ chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Ngã, nhân cho đến người biết, người thấy, chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác.

Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Mộng chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Vì sao thế? Vì rốt ráo bất khả đắc. Huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy…

Tu Bồ Đề! Pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ tát chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết tríNhất thiết chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Do nhân duyên ấy nên Nhất thiết trí chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm”.

(Phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Công việc của Bồ tát, theo tất cả các kinh điển Đại thừa là “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Ở đoạn kinh này “đại trang nghiêm” có nghĩa như vậy. Bồ tát thực hành Trí huệ soi thấy tánh Không của tất cả các pháp, an trụ trong tánh Không ấy mà giảng nói cho chúng sanh về tánh Không để giải thoát cho họ.

Tánh Khôngthật tướng của tất cả các pháp thế gianxuất thế gian: “Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp làm ra, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp làm ra”. “Pháp tạo tác, pháp làm ra” là pháp hữu vi, pháp hợp tạo. Tánh Không chẳng phải là pháp hữu vi, pháp hợp tạo, chẳng phải là do duyên sanh. Thiền định thiền quán “cái chẳng phải là pháp làm ra” là thiền định thiền quán tánh Không.

Tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, nên tất cả các pháp đều là tánh Không.

Chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp sanh khởi, đây nói về phương diện vô sanh của tánh Không.

Sắc chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mộng, huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Cho đến các pháp xuất thế gian, “pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, thật tế, nhất thiết trí, nhất thiết trí chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Ở trước chỉ nói chẳng phải tạo tác, sanh khởi, ở đây lại nói thêm “chẳng phải không tạo tác”. Chúng ta cần phải hiểu như thế nào?

Chẳng phải tạo tác, sanh khởitánh Không, một tánh Không không sanh, không có tướng, không có sự xuất hiện. Nhưng tánh Không không chỉ có phương diện không sanh, mà còn có phương diện “chẳng phải không tạo tác”, nghĩa là phương diện tạo tác, làm ra, có sanh khởi, có tướng, có xuất hiện. Đó là điều Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Tánh Không không chỉ hoàn toàn là Không, mà còn có sự xuất hiện, còn có tướng sắc xuất hiện, nhưng sự xuất hiện của sắc vẫn là tánh Không. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đây chính là ý nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa… Mộng, huyễn, hóa… là có sự xuất hiện, nhưng sự xuất hiện ấy là tánh Không, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu nên nói là như mộng, như huyễn, như hóa. Sắc có xuất hiện, mắt có xuất hiện, nhãn xúc có xuất hiện, nhưng như mộng, như huyễn, như hóa, như bóng trong gương.

 

Tiếp theo đoạn kinh ghi lời của Đức Phật ở trên, ngài Tu Bồ Đề! nói:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như con quán sát nghĩa Phật nói thì sắc không buộc, không thoát; thọ tưởng hành thức không buộc không thoát.

Ngài Phú Lâu Na hỏi ngài Tu Bồ Đề: Thế nào là sắc không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức là không buộc không thoát?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Sắc như mộng không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức như mộng không buộc không thoát. Sắc như bóng, như vang, như huyễn, như sóng nắng, như biến hóa không buộc không thoát…

Thế gian, xuất thế gianhữu lậu cùng vô lậu, sắc thọ tưởng hành thức cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Tất cả pháp cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Này ngài Phú Lâu Na! Bố thí ba la mật đến Bát nhã ba la mật không buộc không thoát. Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát…

Đại Bồ tát an trụ trong sáu ba la mật không buộc không thoát, cho đến an trụ nhất thiết chủng trí không buộc không thoát, thành tựu chúng sanh không buộc không thoát, tịnh Phật quốc độ không buộc không thoát, cúng dường chư Phật không buộc không thoát, nghe pháp không buộc không thoát, trọn chẳng lìa chư Phật không buộc không thoát… chuyển pháp luân không buộc không thoát, an lập chúng sanh nơi Tam thừa không buộc không thoát.

Như vậy, ngài Phú Lâu Na! Đại Bồ tát thực hành sáu ba la mật không buộc không thoát, vì biết tất cả pháp đều không buộc không thoát, vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Đây gọi là đại Bồ tát không buộc không thoát đại trang nghiêm” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Tất cả các pháp sắc thọ tưởng hành thức, sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý cho đến các thánh pháp như sáu ba la mật, Nhất thiết chủng trí cho đến chúng sanh… đều như mộng, như huyễn, như hóa. Và vì như mộng như huyễn như hóa nên đều không buộc không thoát, không trói buộc không giải thoát.

Tất cả các pháp đều như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Như mộng như huyễn, như hóa… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không buộc không thoát vì vẫn là tánh Không. “Vô sở hữu, lìa, tịch diệt, vô sanh” không có nghĩa là không có gì cả, hoàn toàn vắng lặng, bất động, không có pháp nào sanh ra. Tất cả có xuất hiện, có chuyển động, có sanh ra nhưng xuất hiện, chuyển động, sanh ra trên nền tảng tánh Không, vô tướng, bất động, vô sanh nên như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Thế nên, xuất hiện mà không xuất hiện, không xuất hiệnxuất hiện; sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh. Như câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh, có sắc xuất hiện nhưng đồng thời là Không, là Không nhưng đồng thời có sắc xuất hiện: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đó là nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa…, không buộc không thoát.

Bồ tát quán thấy như vậy thì thấu rõ tánh Khôngđược giải thoát, và ở trong tánh Không này mà giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn. Khi giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn, Bồ tát cũng giải thoát khỏi cả công việc làm lợi lạc cho chúng sanh này.

 

Tu Bồ Đề! Ví như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm ra đại chúng, rồi cung cấp đồ ăn uống, cho đến các thứ cần dùng. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Đối với nhà huyễn thuật ấy thật có đại chúng để cung cấp cho chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không có thật.

- Này Tu Bồ Đề! Cũng vậy, đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả chúng sanh, tuy có bố thíthật không có chỗ bố thí. Vì sao thế? Vì tướng các pháp như huyễn vậy” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Không những Bồ tát như nhà huyễn thuật hóa làm ra chúng sanh để bố thí cho họ, mà chính Bồ tát cũng là người do biến hóa, “đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp cho chúng sanh”. Người bố thí, người nhận bố thí, và vật được bố thí đều như huyễn thuật, như biến hóa. Tất cả đều được làm trong tánh Không nên tất cả đều được giải thoát.

 

Đức Phật bảo A Nan: Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.

Như cõi nước Phật A Súc, Thanh Văn, Bồ tát không đối hiện trước mắt, các pháp cũng không đối hiện trước mắt, các pháp không thấy nhau, các pháp không biết nhau. Vì các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn. Như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt. Bồ tát hành như vậy là hành Bát nhã ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp. Bồ tát học như vậy là học Bát nhã ba la mật.

Người muốn được các Ba la mật phải học Bát nhã ba la mật. Học như vậy gọi là đệ nhất học, là tối thượng học, là vi diệu học. Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ” (phẩm Chúc Lụy, thứ 66).

 

Các pháp chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, chẳng đối lập nhau, vì sao thế? “Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh, nên không buộc không thoát”. Trong khi đó người mê lầm thì thấy có đối vật, đối tượng trước mắt. Một khi có đối tượng bèn có chủ thể, từ đó mà có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng che lấp tánh Không.

Các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn, nhưng vì vô minh phân biệt nên con người thấy ngược lại với thật tướng tánh Không: có sự thấy, có sự biết do phân biệt, có làm, có động, có nắm bắt, có nghĩ bàn. Thấy có các pháp ngược lại với thật tướng tánh Không nên có sanh tử khổ đau, do chính cái thấy sai lầm của mình.

Người thấy tánh Không không thấy có đối vật, đối tượng. Và nếu có sự xuất hiện thì sự xuất hiện ấy như mộng, như huyễn, như hóa… không có vật đối hiện thật trước mắt. Cho nên người thực hành trí huệ tánh Không thì “như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt”. Nếu không thấy tất cả mọi sự xuất hiệnvô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu, như huyễn như mộng… mà thấy tất cả mọi sự xuất hiện là có thật, khi ấy tất cả mọi sự xuất hiện biến thành tất cả sanh tử.

Bồ tát hành như người huyễn là hành trí huệ Bát nhã. Và học như vậy, hành như vậy là làm an lạc lợi ích cho tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ, vì hành như vậy là hành trong tánh Không, không có ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy trí huệ tánh Không luôn luôn đi cùng với từ bi.

Người huyễn thì không có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng và khi không có bốn tướng ấy thì đó là tướng Như, là pháp tánh, là thật tế.

 

“- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát được Nhất thiết chủng trí như tướng Như.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như tướng Như?

- Này Tu Bồ Đề! Như thật tế.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như thật tế?

- Này Tu Bồ Đề! Như pháp tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như pháp tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Như ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Ngã, chúng sanh, thọ mạng có thể có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể có được.

- Này Tu Bồ Đề! Nếu ngã, chúng sanh, thọ mạng chẳng thể có được thì sao lại nói có ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh? Nếu trong Bát nhã ba la mật chẳng nói có tất cả pháp thì sẽ được Nhất thiết chủng trí” (phẩm Tam Huệ, thứ 70). 

 

Thực hành Trí huệ tánh Không là không thấy có pháp, không chỗ làm, như người biến hóa độ chúng sanh biến hóa.

 

- “Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ tát chẳng thấy có sắc, cho đến chẳng thấy có Vô thượng Bồ đề.

Này Tu Bồ Đề! Vì không chỗ làm mà đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật. Vì sao thế? Vì tất cả pháp không chỗ làm, không chỗ tạo tác, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác. Vô thượng Bồ đề cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác, đại Bồ tát cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật không chỗ làm, không chỗ tạo tác…

- Này Tu Bồ Đề! Phật cũng như vậy, biết các pháp như biến hóa. Như người biến hóa độ chúng sanh biến hóakhông thậtchúng sanh để độ.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật, hành như người biến hóa hành” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Người huyễn làm việc huyễn. Năng lực của người huyễn thật phi thường vì không còn những chướng ngại chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng. Càng phá trừ được chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng thì năng lực của người huyễn càng được khai mở. Thế nên, Kinh cho chúng ta thấy rằng bậc có năng lực tối thượng, Đức Phật, đồng với người huyễn, người hóa tối thượng. Bậc người huyễn, người hóa tối thượng, bậc có năng lực tối thượng cũng là phước điền tối thượng.

Ở đoạn tiếp theo của phẩm Tam Huệ, kinh nói:

 

“- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì Phật cùng người hóa có gì khác?

- Này Tu Bồ Đề! Phật và người hóa không khác. Vì sao thế? Vì Phật hay làm sự việc, người hóa cũng hay làm sự việc.

- Tu Bồ Đề! Tất cả chúng sanh thế gian đều cho là Phật có diệt độ thật. Nhưng này Tu Bồ Đề! Người hóa thật không sanh không diệt.

Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã ba la mật phải tin và biết rằng các pháp như huyễn hóa.

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật và người hóa của Phật không sai khác nhau thì làm sao khiến người bố thí, cúng dường thanh tịnh, cho đến được phước đức không cùng tận?

Phật bảo Tu Bồ Đề: Phật dùng thật tướng của tất cả các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh. Hóa Phật cũng dùng thật tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh… Vì thế nên biết rằng Phật cùng hóa Phật không sai khác, vì thật tướng của các pháp không sai khác vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật, vào trong thật tướng của các pháp như vậy. Thật tướng của các pháp chẳng hư hoại, đó gọi là tướng Bát nhã ba la mật cho đến tướng Giác ngộ Vô thượng không hư hoại” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Như mộng, như huyễn, như hóathật tướng của tất cả pháp, đó là tánh Không. Tánh KhôngTrí huệ, đồng thờiphước điền của tất cả chúng sanh trời người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30384)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30657)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21015)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20197)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19428)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24381)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30654)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15682)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27782)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19763)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15567)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23252)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23561)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17526)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15692)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21874)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37987)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22162)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23246)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21348)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28414)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32541)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25171)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34680)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22942)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27711)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31300)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13596)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25173)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27822)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22087)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20729)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22211)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27123)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24143)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21895)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14709)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23149)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24020)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21101)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14199)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19937)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22501)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14070)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28036)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22813)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28201)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10981)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28504)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31566)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26165)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14946)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28035)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7429)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25351)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20698)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21126)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12232)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11909)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12800)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant