Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Như Nhà Họa Sư, Hay Vẽ Những Thế Gian

26 Tháng Mười Hai 202117:33(Xem: 3426)
Tâm Như Nhà Họa Sư, Hay Vẽ Những Thế Gian

Tâm Như Nhà Họa Sư, Hay Vẽ Những Thế Gian


Nguyễn Thế Đăng

Hoa Vô Ưu

“Bấy giờ, Bồ tát Giác Lâm thừa oai lực của Phật quan sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:

Ví như nhà họa sư
Phân bố những màu sắc
Hư vọng nắm tướng khác
Đại chủng không sai khác.

Trong đại chủng không sắc
Trong sắc không đại chủng
Cũng không lìa đại chủng
Mà có được màu sắc.

Trong tâm không tranh mà
Trong tranh màu không tâm
Nhưng chẳng lìa khỏi tâm
Mà có được tranh màu.

Tâm ấy hằng chẳng trụ
Vô lượng khó nghĩ bàn
Thị hiện tất cả sắc
Mỗi mỗi chẳng biết nhau.

Ví như nhà họa sư
Chẳng biết được tự tâm
Nhưng do tâm nên vẽ
Tánh các pháp như vậy.

Tâm như nhà họa sư
Hay vẽ các thế gian
Năm uẩn từ tâm sanh
Không pháp nào chẳng tạo.

Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Phải biết Phật cùng tâm
Thể tánh đều vô tận.

Nếu người biết tâm hành
Tạo khắp các thế gian
Người ấy ắt thấy Phật
chân thật tánh Phật.

Tâm chẳng trụ nơi thân
Thân cũng chẳng trụ tâm
Mà hay làm Phật sự
Tự tại chưa từng có.

Nếu người muốn rõ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Tất cả duy tâm tạo.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Dạ Ma cung kệ tán thứ 20, Pháp sư Thật Xoa Nan Đà Hán dịch)

1/ Chúng ta thấy màu sắc như thế nào?

Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác. Ngày nay qua nghiên cứu khoa học, chúng ta biết khá rõ về cách thức tạo màu nơi thần kinh não bộ.

Khi ánh sáng trắng, không màu, như ánh sáng mặt trời, chiếu vào một vật, một phần quang phổ bị vật hấp thụ và một phần được phản chiếu lại đến mắt. Phần những sóng ánh sáng không bị hấp thu phản chiếu lại đến mắt chúng ta cho chúng ta thấy màu sắc của vật ấy. Nhưng cái đến với mắt, với các tế bào hình nón, hình que của mắt không phải là màu sắc mà chỉ là những sóng ánh sáng, những hạt quang tử (photon). Cái thấy ra màu sắc là do hệ thần kinh giác quan và hệ thần kinh não bộ diễn dịch các kích thích của các sóng ánh sáng, các photon thành ra màu sắc. Hệ thần kinh của chúng ta giới hạn nên chúng ta chỉ thấy các màu sắc ở một biên độ giới hạn thôi.

Lấy một thí dụ cụ thể là màu vàng không có trong thực tế, nó chỉ là sự pha trộn hai loại sóng màu đỏ và sóng màu xanh lá cây trong hệ thần kinh não bộ. Màu đen thấy được vì vật ấy hấp thụ toàn bộ sóng ánh sáng, không cho chút sóng nào phản chiếu lại. Màu trắng là do không có hấp thu, phản chiếu lại toàn phần.

Hơn thế nữa, ngoài những yếu tố khách quan như nguồn ánh sáng mạnh hay yếu, tiếng ồn, mùa… còn có những yếu tố chủ quan như tuổi tác, tâm trạng, ký ức… làm màu sắc cũng có sự biến đổi.

Hệ thần kinh giác quan, hệ thần kinh não bộ, tâm trạng con người… trong Phật giáo gọi là tâm, hay là tám thức.

Như thế màu sắc là sự hấp thu và phản xạ của các sóng ánh sáng, phần các sóng ánh sáng phản xạ này được năm thức giác quan, ý thức, thức chấp ngãtạng thức, tám thức ấy tạo thành tâm, diễn dịch, hòa trộn thành các màu. Các trò chơi hấp thu và phản xạ của ánh sáng thành màu sắc thì không thể thấy được, không có xuất hiện nếu không có tâm. Như vậy tâm chính là kẻ tạo ra trò chơi các màu sắc, nên Kinh nói: “Tâm như nhà họa sĩ, phân bố các màu sắc”.

Cụ thể, từ ánh sáng trắng của mặt trời, tâm đã “phân bố”, biến hóa ra đủ thứ màu sắc có thể thấy được đối với con người.

2/ Tâm như nhà họa sư, hay vẽ các thế gian

Các nguyên tử không có màu sắc, không có mùi hương… màu sắc và mùi hương là do các thức giác quan và các thức khác phản ứng với các nguyên tử mà có ra. Thế nên, các màu sắc, mùi hương là do tám thức hay tâm tạo ra.

Người bình thường không biết những màu sắc do đâu tạo ra, tưởng rằng màu sắc là tự chúng hiện hữu, chúng tự có tánh riêng, không biết rằng chúng là không có tự tánh, đó là một mê lầm. Những sự vật thấy khác biệt nhau là do màu sắc của chúng khác biệt nhau. Người bình thường tưởng rằng những màu sắc đó là đặc tính vốn có của sự vật, không biết rằng những màu sắc ấy là do tâm tạo, sự khác biệt giữa các sự vật là do tâm tạo, nên bám chấp vào các tướng khác nhau của các sự vật. Đó là một mê lầm khác, mê lầm ấy được Kinh nói trong câu, “hư vọng nắm giữ các tướng khác nhau”. Trong khi ấy, các đại chủng tạo thành thế giớikhông có tướng sai khác”. Thấy có các tướng, các sự vật khác nhau chỉ là cái thấy hư vọng, vọng thấy.

Các đại chủng là đất, nước, lửa, gió tạo thành thế giới bên ngoài. Nhưng trong các đại chủng không có màu sắc, trong màu sắc cũng không có đại chủng. Màu sắc và đại chủng không hợp lại với nhau, màu sắc cũng không lìa đại chủng mà có, bởi vì màu sắc là không thật có, do vọng thấy.

Không hợp, không lìa vì cả hai đều vô tự tánh, do nhiều duyên mà xuất hiện, vô tự tánh là một nghĩa của tánh Không.

Đó là xét mối tương quan giữa màu sắc và đại chủng. Bốn câu tiếp theo xem xét mối tương quan giữa tâm và bức tranh màu ngoại cảnh. Trong tâm tìm xét tận cùng cũng chẳng thấy có cảnh tranh màu nào cả. Tâm là trống không, tâm là tánh Không: “Trong tâm không tranh màu”.

Nhưng xem xét bức tranh màu của ngoại cảnh, chúng ta cũng không tìm thấy dấu vết gì của tâm, “trong tranh màu không tâm”. Tâm không hiện hữu nơi cảnh. Nhưng như trên đã nói, có màu sắc là vì có tâm, màu sắc do tâm tạo. Thế nên, Kinh nói, “nhưng chẳng lìa khỏi tâm, mà có được tranh màu”.

Tâm không ở đâu cả, không ở trong thân cũng không ở nơi cảnh. Tâm không trụ ở một chỗ nào, “tâm ấy hằng chẳng trụ”. Đồng thời tâm ở khắp nơi, vì chúng ta đều biết, đều thấy khắp nơi. Khắp nơi là không bị giới hạn vào một chỗ nào, chúng ta có thể thấy biết vô lượng các sự vật nên tâm cũng phải là vô lượng, “vô lượng khó nghĩ bàn”.

Tâm ấy làm hiện ra tất cả sắc, “thị hiện tất cả sắc”. Nhưng tất cả các sắc ấy, nếu không nhờ tâm, không thông qua tâm, thì chúng chẳng biết nhau, “mỗi mỗi chẳng biết nhau”. Tâm làm xuất hiện tất cả sắc, điều mà kinh dùng chữ “thị hiện”. Thị hiện là tâm biểu lộ mình, thể hiện mình nơi sắc, qua sắc. Đây là điều mà người xưa nói “ứng vật hiện hình”.

Để hiểu tâm Không lại thị hiện tất cả sắc, chúng ta có thể lấy câu “Sắc tức là Không, Không tức là sắc” của Bát Nhã Tâm Kinh để hiểu rõ thêm. “Sắc tức là Không” nghĩa là đưa tất cả sắc về bản tánh của chúng là Không. Nhưng Không khôngnghĩa không có gì cả, mà “Không tức là sắc” có nghĩa Không thị hiện, biểu lộ ra tất cả các sắc, nhưng tất cả các sắc vẫn là tánh Không.

Một thí dụđại dương. Đại dương thì không có hình tướng gì, vô tướng; và bao la không ở riêng một chỗ nào cả, vô trụ. Nhưng đại dương thị hiện qua các làn sóng, nhờ thấy các làn sóng mà người ta biết đây là đại dương.

Ví như nhà họa sư, chẳng biết được tự tâm, nhưng do tâm nên vẽ, tánh các pháp như vậy”. Một nhà họa sư chẳng biết được tự tâm, chẳng biết được bản tánh của tâm và những hoạt động, vận hành của tâm (“tâm hành”), từ rất vi tế đến thô, nhưng vẽ được là do tâm, từ tâm và bởi tâm, “nhưng do tâm nên vẽ”. Chính vì không biết do tâm tạo, duy tâm tạo mà tự cho rằng mình vẽ ra, đây là chấp ngã, sự tham gia chi phối của thức thứ bảy. Rồi lại cho bức tranh màu do tâm vẽ ấy là có thật, mỗi sự vật trong bức tranh ấy đều có tự tánh, đó là chấp pháp. Chính hai cái chấp ngãchấp pháp này đã làm pháp giới nhiễm ô, biến thành sanh tử khổ đau. Không có sự nhiễm ô của chấp ngãchấp pháp thì pháp giớitánh Không thanh tịnh, vô tự tánh nên như huyễn, như mộng.

Tánh các pháp như vậy”: các pháp được tâm vẽ ra mà tâm thì “hằng chẳng trụ, vô lượng khó nghĩ bàn” nên các pháp thì không có “ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng” nên vô tự tánh, như huyễn, như mộng nên vốn là tự do, giải thoát. Tâm là tánh Không nên các pháp vốn là sự vẽ ra, sự thị hiện của tâm tánh Không nên các pháp cũng là tánh Không, vô tự tánh, các pháp chínhgiải thoát.

Tâm như nhà họa sư, hay vẽ các thế gian, năm uẩn từ tâm sanh, không pháp nào chẳng tạo”: Khi tâm bị nhiễm ô bởi chấp ngãchấp pháp, thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức (năm yếu tố này là tâm) bị nhiễm ôbiến thành sanh tử. Khi tâm thoát khỏi nhiễm ô chấp ngã chấp pháp, trở lại bản tánh vốn thanh tịnh của tâm, thì tâm ấy và những hoạt động biến hóa, vẽ vời của nó trở thành Niết bàn. Như vậy cũng một tâm ấy mà biến thành sanh tử hay biến thành Niết bàn, cũng một tâm này mà chuyển hóa sanh tử thành Niết bàn. Đây là điều câu kệ sau nói, “Tất cả duy tâm tạo”.

3/ Bản tánh của Tâm, Phật và chúng sanh

Như tâm, Phật cũng vậy; như Phật, chúng sanh đồng, phải biết Phật cùng tâm, thể tánh đều vô tận”.

Cũng câu kệ trên, bản dịch Kinh Hoa Nghiêm 60 quyển do Phật Đà Bạt Đà La là:

Như tâm, Phật cũng vậy; như Phật, chúng sanh đồng; tâm, Phật, và chúng sanh, cả ba không sai khác”.

Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba đồng Một Tâm, một Phật tâm, một Pháp thân, một Như Lai tạng, một pháp giới tánh, một Chân Như…

Thế nhưng cũng ở trên và ở trong cùng Một Tâm ấy, chúng sanhvô minh, không biết, đã tạo ra sự chia cắt, phân biệt tạo thành một ‘cái tôi và cái của tôi’ giả lập, từ đó phát sanh đủ thứ phiền não, các độc tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ, nghi ngờ… Sự chấp ngãchấp pháp cùng với đủ thứ phiền não phát sanh từ đó đã chia cắt pháp giới thành từng mảnh vụn, tạo ra cái mà đạo Phật gọi là sanh tử luân hồi khổ đau. Sanh tử là do tâm bị nhiễm ô của chúng sanh vẽ ra, rồi nhuộm thêm những màu phiền não.

Đó là điều ở trên nói, “hư vọng bám nắm các tướng khác nhau”. Thế nên để giải tan cái sanh tử hư vọng này, phải nhận biết hoạt động của họa sư tâm như nhà huyễn thuật này và nhận biết bản tánh của tâm để khỏi mê mờ bởi những thị hiện vẽ vời, vô tự tánh của nó. Bản tánh của nhà họa sư tâm là tánh Không, cho nên sanh tử mà nhà họa sư ấy vẽ ra là tánh Không, vô tự tánh, vô tướng, vô trụ, như huyễn như mộng.

Bản tánh của tâm ấy vốn thanh tịnh, một vị đồng nhất, “tâm, Phật và chúng sanh, cả ba không sai khác”. Bản dịch kia nói, “tâm, Phật và chúng sanh, thể tánh đều vô tận”. Chữ “vô tận” là để chỉ tánh Không, mà ở trên nói là “chẳng trụ”, “vô lượng”. Tâm, Phật, chúng sanh đều đồng một bản tánhtánh Không, đồng một quang minh, đồng một năng lực. Vô tận nghĩa là tánh Không, quang minhnăng lực biến hóa của tâm Phậtvô tận.

Nếu người biết tâm hành, tạo khắp các thế gian, người ấy ắt thấy Phật, rõ chân thật tánh Phật”. Biết rõ tâm hành, hoạt động biến hóa, vẽ nên mọi cõi thế gian của tâm, không lầm lẫn cho đó là cái tôi và của tôi cùng những phiền não của nó là thật, người ta biết được tất cả những hoạt động biến hóa của tâm luôn luôn xảy ra trên cùng một nền tảng, cùng một bản tánhtâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác”. Tất cả mọi tâm hành, mọi biến hóa của tâm đều xảy ra trên nền tảng tánh Không, ánh sáng và năng lực, là ba mặt của bản tánh vốn thanh tịnh của tâm. Nói trực tiếp hơn, thì tất cả mọi biến hóa đều là sự “thị hiện” của bản tánh của tâm, của tánh Không, ánh sáng bổn nguyên của tâm và năng lực sẳn có của tâm.

Thấy được tất cả các thế giantâm hành, là sự biến hóa thanh tịnh của tánh Không, ánh sáng bổn nguyên và năng lực thanh tịnh, đó là thấy những cõi Tịnh độ, thấy sự biến hóa của Pháp thân Phật thành vô số Hóa thân Phật. Đó gọi là thấy Phật, thấy chân thật tánh Phật, tức là thấy Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng và Hóa thân năng lực biến hóa, cả ba không lìa nhau. Đó là ba thân của Phật pháp giới, mà Kinh Hoa Nghiêm gọi là Phật Tỳ Lô Giá Na, dịch là Phật Đại Nhật, Phật Phổ Quang Minh, Phật Quang Minh Biến Chiếu.

Tâm chẳng trụ nơi thân, thân cũng chẳng trụ tâm, mà hay làm Phật sự, tự tại chưa từng có”. “Tâm ấy hằng chẳng trụ, vô lượng khó nghĩ bàn”, tâm ấy là Vô trụ, Vô tướng (vô lượng) và Vô niệm (khó nghĩ bàn). Cái Vô trụ, Vô tướngVô niệm thì không trụ nơi thân và cả tâm chúng sanh, nhưng tánh Không vô trụ, vô tướngvô niệm ấy thường làm Phật sự, vì tánh Không luôn luôn đi cùng ánh sáng và năng lực.

Tánh Không, ánh sáng và năng lực không chỗ nào không có, “tâm hành” ở khắp tất cả, thậm chí nói theo Kinh Hoa Nghiêm, hoạt động trong từng hạt bụi. Hoạt động ở khắp tất cả, hoạt động của một cái toàn thể không có gì ngoài nó cũng có nghĩa là làm tất cả mà không làm gì cả. Điều đó Kinh đã nói là “thường hay làm Phật sự” mà lại “tự tại chưa từng có”.

Nếu người muốn rõ biết, tất cả Phật ba đời, phải quán pháp giới tánh, tất cả duy tâm tạo”. Pháp giới tánhbản tánh của pháp giới, cũng là bản tánh của “tâm, Phật, và chúng sanh, cả ba không sai khác (hay “thể tánh đều vô tận”). Pháp giới tánh là nền tảng từ đó hóa hiện, thị hiện ra pháp giới, tức vũ trụ. Pháp giới tánhPháp thân của tất cả chư Phật ba đời, từ đó có Báo thânHóa thân của chư Phật với các cõi Tịnh độ.

Thế nên muốn biết tất cả Phật ba đời, Pháp thân, Báo thânvô số Hóa thân Phật thì phải quán thấy “chân thật tánh Phật”, tức là pháp giới tánh, bao gồm ba thân của chư Phật. Pháp giới tánh ấy cũng là bản tánh của tâm, Phật và chúng sanh.

“Tất cả duy tâm tạo”, chữ tâm ở đây là tâm của Phật, chúng sanhpháp giới. Thấy tất cả duy Tâm tạo là thấy tất cả Ba thân, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na. Nói cách khác, Ba thân Phật Tỳ Lô Giá Na thị hiện thành tất cả pháp giới.
 

Nguyễn Thế Đăng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8058)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8855)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9374)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11554)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7643)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12374)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143919)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 7027)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11926)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8679)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 20042)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9330)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10886)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13660)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11491)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9443)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14526)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7314)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32565)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13179)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21065)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39231)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7183)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 9011)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6779)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9800)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9515)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8074)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11852)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16208)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9660)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12292)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8854)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15616)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8052)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17902)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8712)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8362)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10573)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15900)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17567)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7968)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13096)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8090)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8659)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9836)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10410)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23359)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19446)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10123)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8309)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24251)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8886)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8518)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8050)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17815)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9552)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8246)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24427)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24783)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant