Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

20 Tháng Giêng 202220:04(Xem: 2063)
Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 2


Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh? Chúng ta sẽ tìm hiểu để thực hành những vấn đề này theo phẩm Thế giới thành tựu thứ tư của Kinh Hoa Nghiêm.

1/ Vũ trụ này thực sự là gì?

Trí huệ công đức biển rất sâu

Hiện khắp mười phương vô lượng cõi

Tùy các chúng sanh đáng được thấy

Quang minh chiếu khắp chuyển pháp luân.

Mười phương biển cõi chẳng nghĩ bàn

Phật vô lượng kiếp đều nghiêm tịnh

Vì độ chúng sanh khiến thành thục

Xuất hiện tất cả các cõi nước.

Vũ trụ này là “biển trí huệ, công đức hiện khắp mười phương cõi” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Vũ trụ này là “ánh sáng chiếu khắp chuyển pháp luân” của Phật. Vũ trụ này là “mười phương biển cõi chẳng thể nghĩ bàn, đều trang nghiêm thanh tịnh từ vô lượng kiếp của Phật”.

Nghe được (Văn) như thế, suy nghĩ sâu sắc (Tư) về vũ trụ Phật như thế, và thiền định thiền quán (Tu) vũ trụ Phật ấy, người thực hành sẽ thấy vũ trụ này là “sự chuyển pháp luân khắp cả” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Đó gọi là Nhập Pháp Giới, như tựa đề của phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm. Pháp giới này, là cảnh giới Phật Tỳ Lô Giá Na.

Chúng sanh rộng lớn đến vô biên

Như Lai tất cả đều hộ niệm

Chuyển chánh pháp luân khắp mọi nơi

Đây là cảnh giới Tỳ Lô Phật.

Cảnh giới ấy là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na thị hiện thành Báo thân quang minhHóa thân tức là tất cả vũ trụ, cho đến trong mỗi hạt bụi.

Pháp thân chư Phật chẳng nghĩ bàn

Không sắc không hình không ảnh tượng

chúng sanh hiện tướng sai khác

Tùy tâm họ thích đều khiến thấy

Tất cả cõi nước những hạt bụi

Trong mỗi hạt bụi Phật đều nhập

Khắp vì chúng sanh hiện thần biến

Pháp Tỳ Lô Giá Na như vậy.

2/ Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh?

Thế nhưng chính trong và trên pháp giới Tỳ Lô Giá Na Đại Quang Minh Tạng này lại có những thế giới nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh sanh ra, đó là do:

Chúng sanh bị phiền não loạn nhiễm

Phân biệt ham muốn chẳng một tướng

Tùy tâm tạo nghiệp chẳng nghĩ bàn

Tất cả biển cõi đều thành lập.

Tất cả các cõi nước nhiễm ô bất tịnh đều do tâm nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh mà sanh ra:

Tất cả các cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ông nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Phân biệt và các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… đã làm cho pháp giới “một tướng” thành những phân mảnh đối nghịch nhau, chống đối nhau, thành sanh tử khổ đau. Phân biệt và các phiền não tích tập nhiều thì thành tập khí (những khuynh hướng thói quen, habitual tendencies), đây là cơ sở cho thế giới nhiễm ô nhưng tạm thời, thành lập một cách hư vọng, hiện khởi.

Tất cả cõi do tâm phân biệt

Quang minh soi đến mà hiện ra

Chư Phật ở trong những cõi ấy

Nơi nơi thị hiện thần thông lực.

Có cõi tạp nhiễm hoặc thanh tịnh

Chịu khổ hưởng vui đều khác nhau

Đều do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn

Các pháp lưu chuyển luôn như vậy.

Trong một chân lông vô lượng cõi

Đồng số hạt bụi mà an trụ

Mỗi cõi đều có Phật Biến Chiếu

Ở trong chúng hội diễn diệu pháp.

Tất cả các cõi nhiễm ô bất tịnh đều do tâm phân biệt chứa những thứ phiền nãoxuất hiện. Nhưng dù xuất hiện nhiễm ô bất tịnh thế nào thì chúng cũng phải xuất hiệnhiện hữu trên nền tảng quang minh của Phật Tỳ Lô Giá Na Biến Chiếu: “Quang minh soi đến mà hiện ra, chư Phật ở trong những cõi ấy, nơi nơi thị hiện thần thông lực”.

Cụ thể, một ý tưởng, một niệm phân biệt, phiền não của mỗi chúng ta đều chỉ hiện khởi được trên nền tảng ánh sáng của Pháp thân Phật. Nó hiện hữu chốc lát và lại tan vào ánh sáng của Pháp thân Phật. Đây là sự thực hành thiền địnhthiền quán để tâm càng ngày càng sâu rộng cho đến lúc tương ưng được với Pháp giới Tỳ Lô Giá Na.

Để tương ưng, vào được pháp giới Phật Tỳ Lô Giá Na “hiện khắp mười phương vô lượng cõi”, hành giả bắt đầu bằng lòng tin trong sạch để hành đạo Bồ tát, mà trọn vẹn là hạnh Bồ tát Phổ Hiền:

Cảnh Phật rất sâu khó nghĩ bàn

Khắp dạy chúng sanh khiến được vào

Tâm họ ưa nhỏ chấp các cõi

Chẳng thông đạt được cảnh giới Phật.

Nếu lòng tin trong sạch vững chắc

Thường được gần gũi thiện tri thức

Tất cả chư Phật hộ niệm cho

Đây mới vào được Như Lai trí.

Lìa các nịnh dối tâm thanh tịnh

Thường vui từ bi tánh hoan hỷ

Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu

Khi nghe pháp này lòng vui đẹp.

An trụ Phổ Hiền những hạnh nguyện

Tu hành đạo Bồ tát thanh tịnh

Quan sát pháp giới như hư không

Bèn biết cảnh giới hạnh của Phật.

3/ Các thế giới chuyển biến

Bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng:

Các Phật tử! Nên biết thế giới hải có số nhiều như hạt bụi của thế giới hải kiếp chuyển biến khác nhau. Vì pháp như vậy nên thế giới hảivô lượng kiếp thành kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng sanh nhiễm ô nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm ô. Vì chúng sanh tu phước rộng lớn nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì Bồ tát tin hiểu trú ngụ nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp thanh tịnh. Vì các Bồ tát đều đi khắp các thế giới nên thế giới hải vô biên kiếp chuyển biến trang nghiêm. Vì mười phương tất cả các Bồ tát vân tập nên thế giới hải vô lượng kiếp chuyển biến đại trang nghiêm. Vì chư Phật vào Niết bàn nên thế giới hải kiếp trang nghiêm chuyển biến diệt. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế giới hải kiếp rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh chuyển biến. Vì thần thông biến hóa của Như Lai nên thế giới hải kiếp chuyển biến thanh tịnh khắp. Có vi trần số kiếp chuyển biến như vậy”.

Những thế giới hải, những biển thế giới (y báo) có vô số chuyển biến, tùy theo thân tâm (chánh báo) của tất cả chúng sanh sống trong đó. Cho nên bài kệ Bồ tát Phổ Hiền khi tuyên lại nghĩa này đã mở đầu:

Tất cả những cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ngài nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Nếu có tâm thanh tịnh

Tu những hạnh phước đức

Tâm họ khiến cõi nước

Tạp nhiễmthanh tịnh.

Những thế giới chúng sanh sanh ra là do nghiệp lực. Nghiệp nhiễm ô phiền não thì thế giới chuyển biến thành nhiễm ô, và nếu chúng sanhtâm thanh tịnh, làm hạnh phước đức thì thế giới tạp nhiễm dần dần chuyển biến thành thanh tịnh. Thế giới này tốt hơn hay xấu hơn tùy thuộc vào tâm và hạnh của con người sống trong đó chuyển biến tốt hơn hay xấu hơn. Và thực hành đạo Phậtcon đường để con người chuyển biếnthế giới chuyển biến thành tốt đẹp thanh tịnh.

Cho nên sự sắp xếp các thế giới chuyển biến thành thanh tịnh tùy theo cấp độ tâm hạnh thanh tịnh của các Bồ tát cho đến Phật.

Các Bồ tát tin hiểu

Sanh vào trong kiếp kia

Tùy tâm Bồ tát này

Cõi nước đủ tịnh nhiễm.

Vô lượng số chúng sanh

Đều phát tâm Bồ đề

Tâm họ khiến cõi nước

Kiếp trụ thường thanh tịnh.

Bồ tát tin hiểu ở cấp Mười tín, Mười trụ, Mười hạnh, Mười hồi hướng. Bồ tát này chưa chứng Pháp thân ở cấp Mười Địa, nhưng tâm hạnh đã bắt đầu đẩy lùi nhiễm ô của thế giới nên thế giới vừa có nhiễm vừa có tịnh.

Còn nếu tất cả vô lượng số chúng sanh trong thế giới ấy đều phát Bồ đề tâm thì kiếp trụ của thế giới ấy thường thanh tịnh. Đây là hàng Bồ tát sơ phát tâm, nhưng nếu tất cả chúng sanh trong thế giới đều phát Bồ đề tâm và phát triển Bồ đề tâm ấy trong mọi mặt của đời sống hàng ngày thì thế giới ấy thường thanh tịnh.

Phát Bồ đề tâm nguyện và làm Bồ đề tâm hạnh là trụ cột làm thế giới chuyển biến.

Vô lượng ức Bồ tát

Đến khắp mười phương cõi

Trang nghiêm không khác nhau

Trong kiếp thấy sai khác.

Vô lượng ức Bồ tát đến khắp mười phương cõi, đều dùng hạnh Bồ tát để trang nghiêm, nên nói là “trang nghiêm không khác nhau”, cho các cõi nước. Đây là hàng Bồ tát Pháp thân, mà đời sống của các ngài là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các Bồ tát Pháp thân đều cùng một hạnh “trang nghiêm không khác nhau”, đều cùng “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”, nhưng vì có những cõi có tịnh có nhiễm nên những chúng sanh ở các cõi đó thấy các Bồ tát ấy và y báo, tức là thế giới của các ngài, có sai khác, “trong kiếp thấy sai khác”. Chúng sanh thấy có sai khác vì nghiệp của họ có sai khác, nhưng các Bồ tát Pháp thân đều được các kinh gọi là các Phật tử, các con Phật, nghĩa là cùng một dòng máu Phật, một hạnh Phật, và cái thấy của các ngài, dầu chưa hoàn toàn, thì thế giới này với riêng các ngài bắt đầu hiện thành thế giới thanh tịnh của Phật. Cũng do cái thấy và hạnh thanh tịnh này mà các Bồ tát có thể chịu đựng được, nhẫn chịu được những nghiệp sai khác nhau của chúng sanh, vì Bồ tát đã thấy được “thật tướng của tất cả các hiện tượng (các pháp)”. Với tâm thanh tịnh (chánh báo) các vị có thể sống trong thế giới thanh tịnh (y báo) của riêng mình, bất chấp nghiệp nhiễm ô của chúng sanh, bất chấp thế giới nhiễm tịnh của chúng sanh.

Cho đến khi hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn đạt được Pháp thân thì Bồ tát thấy được, thân chứng được thế giới nhiễm tịnh này, thậm chí trong từng hạt bụi, là pháp giới của Phật. Hay nói cách khác, pháp giới là sự thị hiện của Pháp thân, Báo thânHóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Trong mỗi mỗi hạt bụi

Cõi Phật nhiều như bụi

Bồ tát cùng vân tập

Cõi nước đều thanh tịnh.

dĩ nhiên, với chư Phật, tất cả pháp giới đều xưa nay thanh tịnh, hoàn toàn trang nghiêm, hoàn toàntịnh độ. Thế nên, đối với một vị Phật thì nhập Niết bàn hay ứng hiện ra đời thì vẫn là Pháp thân, Báo thânHóa thân bất biến không dứt. Nhưng với chúng sanh, nếu có Phật ra đời, nghĩa là có thị hiện thành Hóa thân hay Sắc thân ở cõi này để chúng sanh có thể thấy, nghe, tri giác thì họ có đủ hoàn cảnh, điều kiện, đủ duyên để làm “pháp khí” hầu nâng cấp mình cho đến giải thoát, giác ngộ. Do tâm hạnh thanh tịnh ấy nên cõi này có đủ sự trang nghiêm.

Nếu Phật nhập Niết bàn, vào cõi Thường Tịch Quang (theo kinh Đại Bát Niết Bàn), trong đó vẫn đủ cả Ba Thân, nhưng không có Hóa thân ở cõi này, chúng sanh không còn thấy Hóa thân Phật, không còn chỗ cụ thể để nương nhờ, quy y, để trở thành pháp khí, cho tâm dễ dàng thanh tịnh mà thấy được “đầy đủ sự trang nghiêm” của Phật, Pháp, Tăng, thường trụ.

Thế tôn nhập Niết bàn

Cõi ấy trang nghiêm diệt

Chúng sanh chẳng pháp khí

Thế giới thành tạp nhiễm.

Nếu có Phật ra đời

Cõi nước đều tốt đẹp

Tùy tâm họ thanh tịnh

Trang nghiêm đều đầy đủ.

Lực thần thông chư Phật

Thị hiện chẳng nghĩ bàn

Bấy giờ các biển cõi

Tất cả khắp thanh tịnh.

Như vậy, thế giới chuyển biến là do con người sống trong đó chuyển biến, tịnh hóa thân tâm và thế giới của mình và người. Đây là công việc Phật hóa thân tâm và thế giới của mình và người, Phật hóa toàn bộ chánh báoy báo của tất cả mọi người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3879)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5517)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10615)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6156)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9431)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6483)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6030)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7539)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7369)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5259)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8172)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5983)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9704)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7438)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7497)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6297)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5367)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5926)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5709)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3998)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5748)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4135)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7581)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5765)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 22035)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5672)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7136)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5067)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6477)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5855)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5037)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7083)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6073)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5603)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5922)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6052)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6879)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6457)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6106)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6539)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6222)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6419)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5641)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6947)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4592)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7822)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6079)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7329)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7762)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5532)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5172)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5716)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5565)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5551)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5045)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4311)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6105)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5657)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6316)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant