Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Viên Cảnh Trí

01 Tháng Tám 202215:45(Xem: 2249)
Đại Viên Cảnh Trí
Đại Viên Cảnh Trí

Nguyễn Thế Đăng

tam vo lau hoc

Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. 


Đại viên cảnh trí là gì? Là trí như tấm gương (cảnh) hoàn toàn (đại) tròn đầy, viên mãn (viên). Dịch gọn là trí như tấm gương tròn đầy.

Kinh Phật Địa nói “có năm pháp gồm trong Phật địa: 1/ Pháp giới thanh tịnh, 2/ Đại viên cảnh trí, 3/ Bình đẳng tánh trí, 4/ Diệu quan sát trí, 5/ Thành sở tác trí.
Kinh cũng nói pháp giới thanh tịnh có tất cả thế giới, tất cả sắc tướng, tất cả chúng sanh cùng với nghiệp của họ, nhưng pháp giới thanh tịnh không vì thế mà nhiễm ô. Như thế tất cả chúng sanh đều ở trong pháp giới thanh tịnh và trong đại viên cảnh trí nhưng không biết, không thể nghiệm được. Các Bồ tát ở trong mười địa Pháp thân thì chứng được từng phần, chỉ có chư Phật mới giác ngộ hoàn toàn.

“Lại nữa, Diệu Sanh! Đại viên cảnh trí là như gương tròn đầy, nương vào gương ấy mà các hình bóng ảnh hiện. Như thế, nương nơi gương trí Như Lai các hình bóng của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức ảnh hiện. Duy lấy gương tròn đầy bình đẳng, thế nên gương trí gọi là Đại viên cảnh trí”.
Theo hệ thống Duy thức hay Du già hành tông, đại viên cảnh trí là do thức nền tảng hay thức A lại da của chúng sanh chuyển hóa thành. Theo Kinh Nhập Lăng Già bản tánh của thức A lại da vốn thanh tịnh:
“Đại Huệ! Tạng thức A lại da Như Lai tạng này bản tánh thanh tịnh chỉ vì khách trần nhiễm ô mà hóa bất tịnh.”
Nói cách khác, bản tánh của thức A lại da là đại viên cảnh trí của Như Lai, và đại viên cảnh trí là Pháp thânBồ tát từ Sơ địa trở lên thực sự chuyển hóa hay tịnh hóa thức A lại da thành đại viên cảnh trí pháp thân nên được gọi là Pháp thân Bồ tát.
Chuyển hóa hay tịnh hóa thế nào? Tịnh hóa sự chấp thật “các hình bóng ảnh hiện của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức”. Càng tịnh hóa đến đâu tấm gương đại viên cảnh trí vốn trống không và sáng tỏ hiện ra đến đó.
Cũng với tấm gương đại viên cảnh trí này, chúng sanh thì lạc vào các hình bóng ảnh hiện và lạc vào sanh tử. Còn với Bồ tát, biết các bóng chỉ là ảnh hiện trên mặt gương nên nhìn thấy tấm gương vì bản tánh của bóng là gương: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc.”
“Như gương tròn sáng có người phước lớn treo lên chỗ rất cao, không bị lay động, có vô lượng chúng sanh qua lại, nơi đó họ quán sát đức tự thân thêm hay mất vì muốn giữ gìn đức, bỏ đi những thất đức.
Như thế, Như Lai treo đại viên cảnh trí ở pháp giới thanh tịnh không gián đoạn, không chút lay động, vì muốn khiến vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm cái tịnh, để giữ gìn cái tịnh, xả bỏ các nhiễm vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí được treo ở pháp giới thanh tịnh, tức ở pháp giới thể tánh trí, không động, không gián đoạn, để chúng sanh và các Bồ tát trong mười địa soi thấy cái tịnh (Pháp thân) để giữ gìn và cái phiền não nhiễm ô để xả bỏ.
“Khiến cho  vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm để xả bỏ, cái tịnh để giữ gìn” nghĩa là tấm gương đại viên cảnh trí luôn luôn ở trước mắt mỗi người. Tấm gương ấy chính là bản tâm, khuôn mặt xưa nay của mỗi người, chỉ vì các nhiễm mà tạm thời bị che khuất.
“Lại như gương tròn đầy cực thiện sáng sạch, ánh sáng không vết dơ chiếu soi khắp. Như thế, Như Lai đại viên cảnh trí ở nơi Phật trí vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng, cực thiện sáng sạch làm định y chỉ, do được nhiếp trì nên sáng soi thanh tịnh không vết dơ, làm sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, ánh sáng soi khắp.” 
Đại viên cảnh trí cực thiện sáng sạch, vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng; đây là giải thoát cho mình, tự giác. Ánh sáng soi khắp làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh là làm lợi cho người, giác tha.
Thực hành đại viên cảnh trí là thiền định (Chỉ), thiền quán (Quán) và Chỉ - Quán đồng thời để thấy và an trụ trong tấm gương ấy. Đại viên cảnh trí vốn sạch, không vết dơ, đây là phương diện Định hay Chỉ, hay Tịch của tấm gương. Ánh sáng soi khắp là phương diện Quán hay Chiếu của tấm gương.An trụ trong tấm gương đại viên cảnh trí thì những vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng dần dần được xóa bỏ, tiêu tan…

“Lại như gương tròn đầy làm chỗ nương duyên cho các bản chất, thảy thảy bóng hình tướng mạo sanh khởi. Cũng như thế Như Lai đại viên cảnh trí, trong tất cả thời làm chỗ nương cho các duyên nên thảy thảy bóng trí (trí ảnh) tướng mạo sanh khởi.”
Tấm gương đại viên cảnh trí không phải là không có bóng nào. Nó in tất cả bóng hình tướng mạo của ba cõi, nhưng tất cả chỉ là bóng trong tấm gương trí được nhìn bởi trí (trí ảnh). Với các bóng trí ấy, chúng sanh chấp là có thật bèn tạo ra sanh tử có thật. Bậc trí thì thấy chúng chỉ là các bóng trong mặt gương đại viên cảnh trívô tự tánhkhông thậtnhư huyễn như mộng, như có như không.
Thấy mọi hình tướng của thế gian là những bóng trong cùng một tấm gương, bóng không lìa gương, bóng chính là gương, đó là thấy đại viên cảnh tríQuán chiếu sâu vào dù chỉ một bóng trong gương, người ta sẽ tìm thấy bóng chính là tấm gương đại viên cảnh trí
“Như trên gương tròn đầy chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện, nhưng trên gương không thật có các bóng hình, vì gương này không có động, không có tạo tác. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện. Nhưng trên đại viên cảnh trí không có các bóng hình, vì gương trí này không có động, không có tạo tác.”
Các bóng hình thật ra không có khởi sanh, khởi hiện, chúng là vô sanh, vô hiện, nghĩa là vô tướng. Vì sao thế? Vì tấm gương đại viên cảnh trí làm chỗ nương duyên cho các bóng hình, nhưng tấm gương ấy vốn vô duyênvô sanh và vô tướng nên các bóng cũng vô duyênvô sanh và vô tướng.
“Lại như gương tròn đầy cùng các bóng hình chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập, mà hiện các duyên kia. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, cùng các bóng hình, chẳng phải hợp chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất vậy.”
Các bóng hình chẳng thể in cứng cố định vào tấm gương nên nói là chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất. Chẳng tụ tập là vô tự tánh, chẳng tan mất mà có xuất hiện.
Thấy các bóng như có xuất hiện, nhưng không thật, như hoa đốm giữa hư không, như trăng trong nước, như sóng nắng mà tưởng là nước…tức là thấy tấm gương đại viên cảnh trí.
Cho nên, thiền định thiền quán thấy các hình bóng trong gương chẳng ra ngoài gương, xuất hiện trên nền tảng là tấm gương bèn thấy được tấm gương. 
“Lại như gương tròn đầy sáng khắp tất cả chỗ của mặt gương, làm chỗ nương duyên cho các bóng hình khởi hiện khắp. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, sáng soi chẳng dứt vô lượng các hạnh thiện, làm chỗ nương duyên cho các bóng trí khởi hiện khắp.
Nghĩa là các bóng hình trí của Thanh Văn thừa, các bóng hình trí của Độc Giác  thừa, các bóng hình trí của vô lượng Đại thừa. Vì muốn khiến cho các bậc Thanh Văn thừa nương vào Thanh Văn thừa mà lìa thoát, bậc Độc Giác do nương vào Độc Giác thừa mà lìa thoát, bậc Đại thừa nương vào vô lượng thừa mà lìa thoát.”
Tấm gương đại viên cảnh trí tròn đầy sáng khắp  tất cả chỗ của mặt gương làm chỗ nương duyên cho các bóng hình trí của các hạnh thiện, trí huệ và công đức của cả ba thừa khởi hiện và giữ gìn khiến cho các chúng sanh và các bậc thánh của ba thừa được lợi lạc
Tấm gương đại viên cảnh trí là nền tảng cho sự thực hành của nhân thừaThanh Văn thừaĐộc Giác thừa và Đại thừa và cũng là con đường cho cả bốn thừa ấy.
“Như trong gương tròn đầy có bóng lớn, đó là bóng đất lớn, núi lớn, cây lớn, dinh thự lớn mà gương này chẳng đồng đẳng với các số lượng kia. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, có các bóng trí từ Cực Hỷ địa đến Phật địa cùng với tất cả bóng trí các pháp thế gian và xuất thế gian, mà đại viên cảnh trí chẳng phải các phần lượng kia.”
Trong đại viên cảnh trí có đủ các pháp thế gian và xuất thế gian, có đủ sanh tử và Niết bàn. Tấm gương trí in bóng các địa từ Sơ địa đến Phật địa mà tấm gương ấy chẳng phải bị giới hạn trong phần lượng mỗi địa. Tất cả các địa đều nằm trong tấm gương nghĩa là tất cả các địa đều cùng một bản tánh là tấm gương. Do đó phần lượng Sơ địa, Nhị địa cũng là tấm gương mà phần lượng Thất địaBát địa cũng là tấm gương. Chính tấm gương đại viên cảnh trí giải quyết cho vấn đề Đốn và Tiệm trong một số tông phái Phật giáo.
Con đường từ địa này qua địa khác nằm trong tấm gương nên muốn tìm địa nào hãy tìm trong tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình của các chất chướng ngại khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ khởi duyên bóng trí cho các bạn xấu ác nhiếp người nghe tà pháp làm chướng ngại chúng sanh, vì đó chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất chướng ngại là các chất làm ngăn trở tính chất tốt đẹp, sáng sạch, thông suốt của gương. Bản tánh của đại viên cảnh trí là “cực thiện, sáng sạch” nên chẳng chứa chấp các tà pháp chướng ngại. Thế nên mục đích của hành giả là đạt đến tấm gương cực thiện cực sáng sạch này, khi ấy con ngườithế giới phản chiếu vào trong gương cũng thành cực thiện, cực sáng sạch.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất tối tăm khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ bóng trí của chúng sanh ngu muội thích xấu ác khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí chẳng phải chỗ cho sự xấu ác khởi duyên, vì ánh sáng không khởi duyên cho các chất tối tăm. Ngược lại, vì tấm gương ấy cực thiện, cực sáng sạch, cho nên bất cứ ai làm những “hạnh thiện”, sáng tỏtrong sạch thì sẽ được tấm gương huân tập nhiếp giữ và do đó dần dần đi vào tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất xa lạ (viễn chất) khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải  chỗ bóng trí của nghiệp bất tịnh chứa chấp của chúng sanh chẳng tin khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất xa lạ là những cái khác với bản tánh của gương trống không, sáng tỏ và diệu dụng phản ánh. Chúng là những hình tướng cứng đặc, che tối, đi ngược lại bản tánh của tấm gương. Chúng là các độc tham, sân, si, kiêu mạnnghi ngờ, đố kỵ… Thế nên loại chúng ra khỏi tâm thì đại viên cảnh trí thanh tịnh và sáng tỏ liền hiển hiện ngay trước mắt.
Ở trên là mười tính cách của đại viên cảnh trí theo Kinh Thập Địa. Đó cũng là mười cách tiếp cận với tấm gương đại viên cảnh trí. Mỗi cách tiếp cận ấy sẽ cho phép chúng ta thấy trực tiếp tấm gương sáng ấy, loại bỏ những phiền não chướng và sở tri chướngcho đến lúc bản tâm mình là đại viên cảnh trí của Như Lai
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6091)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9352)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6412)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5978)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7496)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7311)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5199)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8089)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5926)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9620)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7390)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7416)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6221)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5317)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5858)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5657)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3966)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5699)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4084)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7518)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5714)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21907)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5596)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7057)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5014)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6439)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5811)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5010)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7049)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6047)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5569)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5876)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6002)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6815)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6435)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6080)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6471)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6159)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6355)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5597)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6898)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4563)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7781)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6015)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7270)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7700)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5494)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5146)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5655)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5510)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5519)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5016)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4261)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6039)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5633)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6295)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8527)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5236)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5803)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant