Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)

30 Tháng Tám 202212:18(Xem: 1335)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối

walk-455903_1280-780x470

Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược. Hướng khác lưu chảy về Niết-bàn (Nirvāṇa), đây chỉ cho lớp người vượt thoát sinh tử, điều chỉnh ngã thức, chế ngự cảm xúc vị kỷ thô lậu.

Hướng chảy đầu tiên kiến trúc thành một xã hội thế tục, số đông nhận phận theo một thứ định mệnh dẫn dắt khôn lường bởi lòng ước muốn của tham, sân, si. Đôi khi chính lòng ham muốn thiếu kiểm soát đã tạo ra giông bão bất ngờ, hất tung cả số phận. Hoặc nói cách khác, một xã hội thế tục hấp dẫn với vỏ bọc bên ngoài diễm tuyệt, thật sự bên trong khổ đau, cạm bẫy, bất an… luôn rình rập con người. Dòng chảy thứ hai xây dựng một xã hội thu nhỏ, núp bóng trong rừng sâu, ẩn xa sau cổng viện, những con người mang chí nguyện theo đuổi đời sống tâm linh, giữ trọn lối sống nghèo khó và khiết tịnh. Nhưng trên con đường tìm đạo, với số ít tự mình giải thoát, vài cá nhân ưu việt, còn lại là những tâm hồn yếu đuối, bị chế ngự bởi thứ tội lỗi di truyền nguyên thủy, không thể diệt trừ bằng nổ lực tinh cần, dễ sa ngã trên con đường đạo. Để giúp họ trụ vững trên lộ trình tiến tu, những giới điều nghiêm khắc được quy chế. Tuy nhiên, giữ giớiphạm giớilẽ thường tình đối với những người ngã thức còn non nớt, bản lĩnh nội tại suy nhược, và đối với kẻ té ngã không đủ khả năng đứng dậy thì sự trợ lực của người khác là cần thiết, tức đức Thích Tôn phương tiện khai phóng một con đường, khi phạm tội cho họ sám hối, cho họ cơ hội làm lại cuộc đời.

Mới đây có một vị thầy hỏi chúng tôi, phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được không? Vì thầy này đọc một bài viết trên mạng điện toán, nội dung gợi mở phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được. Tôi xem qua bài viết, nhận thấy tác giả luận chứng rất tỉ mỉ nhưng có chỗ chưa rõ hoặc hiểu nhầm. Chúng tôi xin phép nương ý chính của tác giả, trình bày lại cho sáng tỏ vấn đề. Thật sự giáo pháp nhà Phật u huyền, không ai tự đắc chính mình thấu hiểu tận tường. Kiến thứctu chứng là hai phạm trù, người viết chưa hẳn là người giữ giới nghiêm mật, viết để cùng nhau học hỏi, viết để cùng nhau tu chỉnh lại mình.

I

1. Tội ba-la-di:

Tổng số điều khoản mà Phật quy chế cho chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni thọ trì trong các bộ luật ghi chép không giống nhau. Luật Tứ phần ghi, giới của tỳ-kheo là 250 giới, tỳ-kheo-ni 348 giới. Luật Ngũ phần: tỳ-kheo 251, tỳ-kheo-ni (theo Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bổn, T22n1423) 373, theo Quảng luật (T22n1421) 370. Luật Pāli: tỳ-kheo 227 giới, tỳ-kheo-ni 311 giới v.v… Trong đó nhóm tội ba-la-di là tội nặng nhất.

Về ngữ nghĩa từ “bà-la-di” (波羅夷, Skt. Pārājikā) phần lớn nhận định là nguồn gốc không rõ ràng. Định nghĩa theo luật Pāli, Vin. iii, 28: “Như người bị chặt đầu, không thể sống bằng cách ráp nối lại với thân.” Luật Tứ phần định nghĩa như luật Pāli. Căn bản Hữu bộ: Ba-la-thị-ca (波羅市迦), là tội cực trọng, là cái ác ghê gớm, cần phải hiềm hận… Nếu bí-sô vừa phạm liền chẳng phải sa-môn, chẳng phải con Thích-ca, mất tánh bí-sô, trái với tánh của Niết-bàn…, bị kẻ khác thắng, không thể cứu vớt được, như cây đa-la bị chặt ngọn không thể sống lại được, không thể phát triển.[1]

Hầu như luật bộ phái định nghĩa dài hay ngắn, ít hay nhiều đều giải thích gần giống nhau. Nhưng ý nghĩa dễ hiểu nhất của từ ba-la-di là cụm từ mà Nghĩa Tịnh dịch trong luật Căn bản: “Bị kẻ khác thắng (bị tha sở thắng 被他所勝)”, tức bị phiền não đánh bại, nghĩa này chúng ta thấy khá phổ biến trong các dịch phẩm của Huyền Trang như Bồ-tát giới bổn,[2] Tập dị môn túc luận[3] v.v… Ông dịch là “Tha thắng xứ 他勝處”, “Tha thắng tội 他勝罪”. Vậy tội ba-la-di của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni gồm những tội gì?

Về tỳ-kheo có 4 tội ba-la-di: 1. Học xứ bất tịnh hạnh (không được dâm dục); 2. Học xứ không cho mà lấy; 3. Học xứ đoạn nhân mạng; 4. Học xứ vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân.

Tỳ-kheo-ni có 8: Bốn học xứ đầu giống giới tỳ-kheo; học xứ thứ 5: xúc chạm thân nam; học xứ thứ 6: tám việc;[4] học xứ thứ 7: che giấu trọng tội; học xứ thứ 8: tùy thuận theo tỳ-kheo đã bị Tăng cử tội.

2. Hình thức phạm tội:

Trước khi chúng ta luận bàn đến chuyện phạm tội ba-la-di có thể sám hối được hay không, nghĩa là hiểu theo kiểu dân gian là được tha bổng, khoan hồng, hay giảm án… thì phải tìm hiểu yếu tố pháp lý, tình tiết vụ án, xem người phạm tội và mức độ “gây án” như thế nào.

(a). Tội đầu tiên, phạm hạnh bất tịnh:

Câu chuyện thứ nhất, tỳ-kheo Sudinna sau khi xuất gia, mẹ ruột muốn có cháu nối dõi tông đường, bèn ép ông về nhà hành hạnh bất tịnh với người vợ cũ. Lúc này Phật chưa chế giới. Sau đó Phật chế: Tỳ-kheo nào hành pháp dâm dục sẽ phạm ba-la-di.

Câu chuyện thứ hai là tỳ-kheo Bạt-xà Tử (theo luật Pāli nói là số đông các tỳ-kheo người Vajji ở Vesālī).[5] Tỳ-kheo này chán đời sống tịnh hạnh, trở về nhà cùng vợ cũ làm việc bất tịnh. Từ việc này, Phật chế: Tỳ-kheo nào không kham nổi đời sống tỳ-kheo (dubbalyaṃ anāvikatvā), không xả giới mà hành pháp dâm dục, phạm ba-la-di.

Sau khi Phật chế giới như vậy, có tỳ-kheo sống trong rừng, tự nghĩ là Phật cấm hành dâm với người nữ chứ không cấm với súc vật nên đã hành dâm với con vượn cái. Từ nguyên nhân này khiến Phật mới quy chế thêm, cấm quan hệ với người và cả súc sinh. Giới này đến đây đã thành định chế.

Nhưng con người yếu đuối vẫn là kẻ chiến bại trước phiền nãodục vọng, ngoại trừ bậc Thánh trí ra khỏi càn khôn. Câu chuyện cuối cùng một thời xa xưa đã làm kinh động trong cộng đồng Tăng lữ, gây ra sự tranh biện giữa các bộ phái, cũng liên quan đến vấn đề sám hối tội ba-la-di, và từ đây khiến cho các học giả Phật giáo Việt Nam gần đây nhầm lẫn là ba-la-di được sám hối toàn diện. Đó là sự kiện tỳ-kheo Nandi. Thầy này nổi tiếng tu tập thiền định, đi, đứng, nằm, ngồi đều trong trạng thái thiền. Luật kể, một hôm Nandi ngồi thiền trong rừng An-hoàn (andhavana), vì năng lực thiền định của thế tục không thể chiến thắng lửa dục, vừa xả thiền, bị thiên thần ma hóa làm cô gái đẹp dẫn dụ ông đến xác một con ngựa cái chết trong rừng, rồi cô ấy ẩn vào thân con ngựa, lúc này bị lửa dục thiêu đốt Nandi liền hành dâm nơi xác con ngựa.[6] Phật biết Nandi hối hận ăn năn và có tâm tha thiết không muốn bỏ đạo, Ngài mới dạy Tăng yết-ma trao pháp ba-la-di cho học pháp hành của sa-di (dữ học sa-di hành pháp 與學沙彌行法T23n1435_p0003a21║).[7] Đây là một hình thức khai mở cho phép sám hối. Chúng tôi sẽ bàn tiếp ở mục sau.

Luật Tăng-kỳ chép, giới ba-la-di đầu tiên được Phật chế tại thành Vaiśāli, sau giờ cơm trưa, vào ngày 12 nửa tháng thứ năm, mùa đông, sau 5 năm Phật thành đạo.[8]

(b) Tội thứ hai, không cho mà lấy:

Tỳ-kheo Dhaniya tìm cây để làm thất, tự ý chặt một số cây quý của nhà vua trồng, những loại cây này triều đình lưu trữ để tu sửa thành (devagahadārūni nagarapaṭisaṅkhārikāni). Ông là người đầu tiên quy phạm khiến Phật chế giới: tỳ-kheo nào lấy vật không cho, trị giá 5 tiền, hay trên 5 tiền sẽ phạm ba-la-di.[9]

(c) Tội thứ ba, đoạn nhân mạng:

Do các tỳ-kheo tu quán bất tịnh, khởi niệm nhờm tởm thân thể, bèn nhờ tỳ-kheo khác giết mình. Đức Phật mới chế giới, tỳ-kheo không được tự sát, hoặc chính mình giết người khác, hay sai bảo người giết… đều phạm tội ba-la-di.

(d). Tội thứ tư, vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân:

Nguyên nhân một thuở nọ, gặp năm mất mùa đói kém, khất thực khó khăn, một số tỳ-kheo bàn nhau tự bịa đặt khen ngợi lẫn nhau cho cư sĩ nghe, nói rằng tỳ-kheo này chứng đắc pháp, tỳ-kheo kia chứng đắc pháp, là đắc pháp của bậc thượng nhân, chỉ cho thiền, giải thoát, chánh định, chánh thọ, tri kiến… (Pāli, Vin. i. 91: uttaramanusadhammo nāma jhānaṃ vimokkho samādhi samāpatti ñāṇadassanaṃ…), mục đích để Phật tử cúng dường. Từ lý do này khiến đức Phật chế giới, tỳ-kheo nào thật không sở tri mà tự xưng tôi chứng đắc pháp thượng nhân… kẻ ấy phạm ba-la-di.

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566.
Cittacakkhu


[1] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da 1, T23, no. 1442, p. 630c6.

[2] 菩薩戒本1, T24, no. 1501, p. 1110b12.

[3] 阿毘達磨集異門足論 1, T26, no. 1536, p. 370a24.

[4] Tứ phần 22, p. 716a24: Tỳ-kheo-ni với tâm nhiễm ô biết người nam có tâm nhiễm ô, bằng lòng để cho (1) nắm tay, (2) nắm áo, (3) vào chỗ vắng, (4) cùng đứng, (5) cùng nói, (6) cùng đi, (7) thân dựa nhau, (8) hẹn nhau, là phạm ba-la-di.

[5] Vin. iii. 23, sambahulā vesālikā vajjiputtakā bhikkhū.

[6] Cf. Thập tụng 1, T23n1435, p. 2c29; Tứ phần 34, T22n1428, p. 809a8; Ngũ phần 28, T22n2421, tr. 182c10; Tăng-kì 26, T22n1425, p. 441a28.

[7] Thập tụng 1, p. 3b01, 56, p. 418b29, 57, p. 425b15.

[8] 摩訶僧祇律 2, p. 238a22.

[9] Tứ phần 1, p. 573b15; Ngũ phần 1, p. 6a7 v.v…

Xem:
– Phần II
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8434)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8273)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7858)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7919)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9053)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26221)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13900)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28058)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19912)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7819)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7679)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7530)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8081)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9809)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22816)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16963)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8598)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10434)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10620)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11327)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9926)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10605)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12760)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8837)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19914)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20894)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21444)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13493)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10603)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9566)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26820)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10775)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12167)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30981)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14195)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11216)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11151)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11301)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11695)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12799)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24121)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14954)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11667)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20296)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10632)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10423)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12338)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11531)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14332)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11989)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24708)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12385)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22333)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12587)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12756)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12670)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16853)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13792)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13089)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13538)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant