Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Độ Nhất Thiết Khổ Ách

19 Tháng Mười 202210:18(Xem: 1716)
Độ Nhất Thiết Khổ Ách
Độ Nhất Thiết Khổ Ách

Thích Trung Hữu

sen 6

Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”. Trước đó tôi chưa nghĩ tới chuyện này, nhưng cũng thông minh đột xuất mà trả lời rằng “là do thức thức mạt-na thứ 7, vì nó chấp ngã cho nên mới có lo sợ”.

Sau này suy nghĩ lại thấy câu trả lời ấy cũng không sai. Con người khổ do rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguồn gốc đều là do chấp ngã. Còn ngã là còn đau khổ. Khi nào hết ngã thì hết đau khổ. Cho nên trong Bát-nhã Tâm kinh mới nói “thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là khi thấy 5 uẩn là không thì liền vượt qua được tất cả khổ ách, không còn khổ ách nào nữa. 

Trong những cái chấp ngã của con người thì chấp ngã đối với sắc thân này là cụ thểrõ ràng và dễ nhận thấy nhất. Chấp rằng thân này là ta, là bản ngã của ta. Do chấp như vậy cho nên con người đã đồng hóa ta và thân, coi thân chính là ta và những gì xảy ra với thân cũng chính là xảy ra với ta. Tuy nhiên, đó chỉ là cái thấy cái biết sai lầm của người chưa giác ngộ chứ thật ra thân này không phải là ta hay của ta gì cả. Trong kinh Đức Phật đã rất nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau giải thích rằng thân này không phải là ta hay của ta. Ví dụ như trong kinh Vô ngã tướng thuộc Tương ưng bộ kinh 3Đức Phật dạy rằng nếu thân này là ta hay của ta thì ta đã có thể làm chủ hay sai khiến thân theo ý muốn của ta, rằng “Xin cho sắc thân ta như thế này, xin đừng cho sắc thân ta như thế kia”. Nhưng thực tế ta không làm được như vậy. Ta không thể ra lệnh cho thân hay các bộ phận trong thân như lục phủ ngũ tạng đừng đau ốm theo ý muốn của ta. Khi thân già và chết, ta cũng không thể ra lệnh hay thậm chí van xin thân đừng già, đừng chết. Ta và thân là khác, có thể nương tựa vào nhau, nhân nhượng nhau để mà có thể tồn tại một cách hài hòa chứ ta không thể làm chủ hay điều khiển được thân: “Này các thầy Tỳ-kheo, vì vậy nên, sắc nào dù trong quá khứvị laihiện tại, bên trong bên ngoài, thô hay vi tế, hèn hạ hay cao quý, sắc nào dù xa hay gần, các sắc ấy đều chỉ là sắc mà thôi. Các thầy nên nhận thức sắc ấy bằng trí tuệ trong sạch theo chân lý như vầy: Đó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng phải thân ta”.1 

Trong vô lượng kiếp luân hồi, ta mang thân này rồi tới thân khác, có khi làm người, có khi làm vật, những thân đó bây giờ ở đâu mà nói là thân ta? Nếu những thân đó là ta thì thân hiện tại này là ai? Rõ ràng do ta lầm tưởng chấp thân là ta mà thôi chứ thật ra thân không phải là ta. Tại sao thân không phải là ta mà con người lại cho là ta? Tại sao con người có sự lầm tưởng như vậy? Thật ra điều này cũng có thể hiểu được. Ví như một người sau quá trình học lấy được bằng tiến sĩ, họ liền đồng nhất họ với tiến sĩTiến sĩ với họ là một. Thật ra tiến sĩ chỉ là học vị mà thôi chứ đâu phải bản thân họ. Trước đây họ không phải là tiến sĩ, chỉ sau khi học đến một mức nào đó mới được gọi là tiến sĩ. Ta thấy đó, người ta chỉ làm tiến sĩ sau này thôi mà đã chấp bản thân mình là tiến sĩ rồi thì thử hỏi khi người ta mang thân này từ khi sinh ra và đồng hành cùng với nó cho đến chết làm sao không cho thân này là ta được? Cho nên việc người ta nhận thân này là ta hay của ta thì cũng có thể thông cảm được. Hơn nữa, nương tựa, bám víu vốn là đặc tính tâm lý của con người. Người ta cần nương tựa vào cái gì đó để không cảm thấy lạc lõng, chơi vơi và trống vắng. Mắt bám víu vào sắc, tai bám víu vào tiếng, mũi bám víu vào hương, lưỡi bám víu vào vị, thân bám víu vào xúc, và ý bám víu vào các pháp. Nếu sáu căn không thể bám víu vào sáu trần thì chúng không thể chịu nổi, cảm thấy mình như vô dụng. Có lẽ vì lý do này mà René Descartes, triết gia, nhà khoa học, nhà toán học người Pháp phát biểu rằng “Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”, trở thành yếu tố nền tảng cho triết học Tây phương. Thật ra lý thuyết đó không hoàn toàn đúng. Con người vẫn có thể tồn tại khi không tư duy cũng như mắt vẫn không hề gì khi không nhìn các sắc. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như vậy. Ngược lại, chính thói quen bám víu vào đối tượng, một mặt làm cho con người yếu đuối hơn, mặt khác, đối với việc tu đạo, lại là một trở ngại. 

Người đạt đạo là người không cần nương tựa vào bất cứ đối tượng nào. Còn nương tựa là còn lệ thuộc. Còn lệ thuộc là không thể tự do. Cho nên sự nương tựa, bám víu vào đối tượng thật ra là một thói quen hơn là một sự cần thiết. Và con người không cần phải nương tựa, bám víu vào sắc thân để lấy đó làm bản ngã của mình. Chuyện kể rằng ở gần núi Tung Sơn bên Trung Quốc có ngôi miếu thờ ông Táo rất linh, người đến giết vật cúng tế thường xuyên. Một hôm, có vị Thiền sư, sau này được gọi là Phá Táo Đọa, dẫn nhóm đệ tử đi vào trong miếu. Sư đến chỗ thờ ông Táo, lấy gậy gõ vào đó ba cái bảo:

 - Bếp ơi! Đây là ngói gạch hợp thành, Thánh từ đâu lại, Linh từ đâu đến mà ngươi đòi chuộc mạng nhiều sinh vật như thế? 

Nói xong, Sư gõ mấy cái nữa thì cái bếp ấy liền ngã đổ và dẫn nhóm đệ tử đi ra. Đi được một quãng đường, chợt có vị mặc đồ xanh như là quan đến lễ trước Sư.
Sư hỏi: - Ông là ai? 
Vị đó thưa: 

- Con là thần Táo ở ngôi miếu kia, vừa rồi con được Hòa thượng khai thị pháp vô sanh nên được giải thoát kiếp Táo, sanh về cõi trời, do đó con đến tạ ơn Hòa thượng.2 

Cái bếp vốn chẳng phải là ông Táo nhưng ông Táo chấp cái bếp là bản ngã của mình nên bám víu vào đó. Nay nhờ thiền sư khai ngộ nên mới biết sự thật đó. Có cái bếp hay không thì ông Táo vẫn là ông Táo. Ông Táo không cần nương tựa vào cái bếp mà thành ông Táo vậy. 

Như trên đã nói, mọi đau khổ đều bắt nguồn từ bản ngã. Khi nào con người còn chấp ngã, cho rằng thân này là ta, là của ta thì khi đó con người còn đau khổ. Khi cho thân này là ta thì những gì xảy ra với thân này ta coi như xảy ra với ta nên ta vui buồn theo đó. Ta bịnh, ta già, ta xấu, ta bị xúc phạm, ta bị đánh, bị mắng, bị giết… Và đương nhiên ta phải tìm mọi cách để bảo vệ ta. Chuyện kể rằng ngày xưa có anh lính nọ khi xông trận rất gan dạ, tả xung hữu đột không hề sợ chết. Nhà vua trông thấy rất hài lòng liền ban thưởng cho anh ta chức tước và nhiều bổng lộc. Thế nhưng cũng từ đó khi xông trận anh ta vô cùng nhút nhát, rất sợ chết. Vua gọi anh ta tới hỏi lý do. Anh ta trả lời rằng, trước đây anh ta nhà nghèo lại một thân một mình không có gì để mất nên có chết cũng không sợ, nhưng giờ anh ta có mọi thứ nên không muốn chết. Câu chuyện này phần nào cho ta hiểu được sự ảnh hưởng của sự chấp ngã trong cuộc sống con người. Khi không chấp ngã thì ta làm gì cũng rất tự do tự tại, nhưng khi chấp ngã rồi thì chúng ta phải quan tâm đến nhiều thứ liên quan tới ngã.

Người mà vượt lên trên sự chấp ngã rồi sẽ thấy thân mình là không cho nên rất an nhiên tự tại với những gì xảy ra với mình, cả thân vật chất lẫn tinh thần. Chuyện kể rằng Tô Đông Pha lần đầu gặp Thiền sư Phật Ấn, ngạo mạn hỏi rằng: “Tôi muốn mượn thân tứ đại của Hòa thượng làm tòa ngồi, có được chăng?” Thiền sư Phật Ấn nở nụ cười trên môi đáp: “Bần đạo tứ đại vốn không, ngũ uẩn chẳng có, vậy ngài lấy chi làm tòa ngồi?3 Trước lời nói ngạo mạn của Tô Đông Pha, nếu Thiền sư còn chấp ngã thì sẽ thấy mình bị xúc phạm. Nhưng Thiền sư đã không thấy như vậy và câu trả lời của ngài là một lời nói thật, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, chứ không phải là một trò chơi ngôn ngữ. Trong kinh Upasena thuộc Tương ưng bộ kinh có kể câu chuyện Tôn giả Upasena tu tập trong hang núi bị rắn độc cắn. Dù biết mình sắp chết nhưng Tôn giả “sắc diện vẫn tươi sáng hồng hào không lo âu sợ hãi”, bình tĩnh báo cho các vị tu chung ở đó biết sự việc và nhờ các vị khiêng mình ra khỏi hang vì thân thể sắp bị “phân tán như một nắm rơm” không thể tự đi được. Tôn giả Upasena được phong thái như vậy là vì, như Tôn giả nói từ lâu ngài đã không coi cái thân này là của mình, nên hôm nay gặp tình cảnh này ngài vẫn an lạc như vậy: 

“Này Hiền giả Sāriputta, đối với ai nghĩ rằng: Tôi là con mắt’, hay: ‘Con mắt là của tôi’... ‘Tôi là cái lưỡi’, hay: ‘Cái lưỡi là của tôi’... ‘Tôi là ý’, hay: ‘Ý là của tôi’, thời đối với các người ấy, này Hiền giả Sāriputta, thân có thể bị đổi khác, hay các căn bị biến hoại. Và này Hiền giả Sāriputta, tôi không nghĩ như sau: ‘Tôi là con mắt’, hay: ‘Con mắt là của tôi’... ‘Tôi là cái lưỡi’, hay: ‘Cái lưỡi là của tôi’... hay: ‘Tôi là ý’, hay: ‘Ý là của tôi’, thời này Hiền giả Sāriputta, làm sao thân ấy của tôi lại có thể đổi khác, hay các căn có thể biến hoại. Vì rằng trong một thời gian dài, Tôn giả Upasena đã khéo nhổ tận gốc ngã kiếnngã sở kiếnngã mạn tùy miên, cho nên Tôn giả Upasena không có những tư tưởng như: ‘Tôi là con mắt’, hay: ‘Con mắt là của tôi’... hay: ‘Tôi là cái lưỡi’, hay: ‘Lưỡi là của tôi’... hay: ‘Tôi là ý’, hay: ‘Ý là của tôi’.
Vua nước Kế-tân là Di-la-quật hiểu lầm Phật giáo âm mưu hại vua nên vua tức giận đích thân cầm gươm đến chỗ Tổ Sư Tử hỏi:
 - Thầy được không tướng chưa?
 Ngài đáp:
 - Đã được. 
Đã được, thì còn sợ sống chết chăng? 
Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.
 - Chẳng sợ có thể cho ta cái đầu chăng? 
Thân chẳng phải cái của ta, huống nữa là đầu. 
Vua liền chặt đầu Tổ rơi xuống đất. Nơi cổ phun lên giòng sữa trắng cao chừng một trượng. Cánh tay mặt của vua Di-la-quật cũng đứt lìa. Bảy ngày sau vua băng.
Chuyện kể rằng Pháp sư Tăng Triệu bị nạn Tần chúa. Khi đưa ra xử chết, tinh thần vẫn an nhiên bất động, nói kệ rằng: 
Tứ đại vốn không chủ, 
Ngũ ấm cũng là không 
Đưa đầu nhận kiếm bén 
Do như chém xuân phong.6 

Vào thời cuối nhà Minh, khi quân Nguyên tràn qua xâm chiếm Trung QuốcQuốc sư Phật Quang tị nạn ở chùa Năng Nhân ở Châu Ô. Khi quân Nguyên kéo đến, chúng trong chùa chạy hết chỉ một mình Sư còn ở lại. Quân Nguyên tới thấy người trong chùa chạy hết chỉ còn mình Sư ngồi đó, bèn lấy dao khứa cổ Sư, sắc diện Sư vẫn tự nhiên không thay đổi gì hết. Sư còn nói bài kệ:

Càn khôn vô địa trát cô cung, 
Thả hỷ nhân không pháp diệc không. 
Trân trọng Đại Nguyên tam xích kiếm, 
Điển quang ảnh lý trảm xuân phong.
 Nghĩa là: 
Trời đất không chỗ để cắm dùi 
Vui thật người không, pháp cũng không. 
Xin thỉnh Đại Nguyên thanh kiếm bén 
Trong ánh chớp lòa chém gió xuân.7 

Quân Nguyên thấy vậy cảm phục quá, sám hối đảnh lễ rồi đi. Nhận định về trường hợp của ngài Phật QuangHòa thượng Thích Thông Phương nói rằng: “Quý vị thấy, với ngài Phật Quang thấy chém như chém gió xuân vậy thôi! Không thấy ai bị chém trong đó nên không thấy có khổ. Còn mình thấy Tôi bị chém nên mới thấy khổ, khổ là chỗ đó. Bởi vậy khi sắp chết quý vị nhớ lại chỗ này, thấy không có Tôi trong này thì hết khổ. Còn nhớ có cái Tôi chết trong này là khổ liền, lẽ thật là như thế! Quán năm uẩn tức không như vậy đó”.8 

Câu chuyện của các thiền sư coi sắc thân này là vô ngã làm tôi nhớ đến câu chuyện mà nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng kể. Cô kể rằng có lần cô đi dự một đám tang và đưa người mất đến lò thiêu. Trong khi thân thể người mất đang được thiêu trong lò thiêu thì phía bên ngoài gia đình và người thân ngồi lại trước bàn Phật để tụng niệm cầu nguyện cho người đã mất. Cô thấy linh hồn của người mất đó, khi đứng trước xác của mình đang bị thiêu thì cảm thấy vô cùng nóng bức và đau khổ. Nhưng khi linh hồn đó vào chỗ mà mọi người đang tụng niệm thì không còn thấy nóng bức nữa. Một số bài giảng của Hòa thượng Giác Hạnh cũng cho biết rằng những người chết đuối dưới sông suối lúc nào cũng cảm thấy lạnh. Từ những câu chuyện này tôi nghiệm ra rằng, việc cái xác bị thiêu đó thật ra không liên quan gì đến linh hồn của họ cả. Nhưng linh hồn sở dĩ cảm thấy nóng bức là vì linh hồn đã đồng nhất họ và cái xác đó, cho nên khi cái xác đó bị thiêu thì linh hồn có cảm giác như chính linh hồn bị thiêu vậy, còn khi linh hồn đến chỗ mọi người đang tụng niệm, thì linh hồn không bị nóng vì lúc đó linh hồn không còn nghĩ tới cái xác đang bị thiêu. Cũng vậy, linh hồn của người chết dưới nước luôn cảm thấy lạnh là vì họ nghĩ cái xác đang ở dưới nước đó là họ. Nếu họ biết rằng thân xác đó không phải là họ thì họ sẽ không cảm thấy lạnh nữa. 

Phải chăng sự chấp ngã của con người chúng ta cũng giống như vậy? Khi ta lấy thân này làm bản ngã của mình thì ta sẽ cùng sướng cùng khổ, cùng sinh cùng diệt với thân. Còn như các thiền sư đắc đạo, họ không lấy thân làm ngã cho nên họ là họ mà thân là thân. Những gì xảy ra với thân là chỉ xảy ra với thân thôi chứ không tác động hay chi phối đến chân tâm của các thiền sư được. Điều này lý giải tại sao các vị ấy bị chém đầu mà chỉ thấy như chém gió xuân, tức là chém vào không khí, vào hư vô. Ta chợt nhớ đến lời Phật dạy trong kinh Tạp A-hàm: “Tỳ kheo, những pháp không thích ứng của các ông, thì hãy nên lìa bỏ hết. Nếu buông bỏ những pháp này rồi, các ông sẽ được an vui lâu dài. Tỳ-kheo, những pháp nào không thích ứng của các ông, mà các ông phải nhanh chóng lìa bỏ? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phải là pháp thích ứng của các ông, hãy lìa bỏ hết. Nếu dứt sạch pháp này rồi các ông sẽ được an vui lâu dài. Giống như cây cối trong rừng Kỳ-hoàn; có người đến chặt cành lá rồi đem đi, các ông cũng chẳng lấy làm lo buồn. Vì sao? Vì những cây này chẳng phải ta, chẳng phải sở hữu của ta. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, những gì không là thích ứng của các ông, hãy lìa bỏ tất cả. Nếu xa lìa hết rồi, các ông sẽ được an vui lâu dài. Những gì không phải thích ứng của các ông? Sắc không phải là thích ứng của các ông, phải lìa bỏ hết. Nếu xa lìa rồi thì sẽ được an vui lâu dài. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức không phải thích ứng của các ông, hãy nhanh chóng lìa bỏ. Nếu buông bỏ các pháp này rồi, sẽ được an vui lâu dài”.9 

Ví dụ mà Đức Phật nêu ra trong đoạn kinh trên là quá rõ ràng và quá hay về vô ngã. Cây cối trong rừng Kỳ-hoàn không có liên hệ gì đến ta cho nên những gì xảy ra với cây cối đó không hề ảnh hưởng gì đến ta. Dù người ta có chặt hay đốt cháy chúng thì ta cũng không bị đau hay bị nóng. Đức Phật dạy chúng ta phải coi thân ta cũng như vậy, “chẳng phải ta, chẳng phải sở hữu của ta” để được an ổn lâu dàiChúng ta có thể làm được điều này không? Ví dụ như khi ta bị đứt tay. Nếu bình thường ta sẽ cảm thấy rất đau. Nhưng nếu ta nghĩ rằng “đây là thân đau chứ không phải ta đau” thì tự nhiên ta sẽ cảm thấy khác liền, không quá khổ sở vì sự đau đớn của vết thương đó. Lấy một chuyện nhỏ như thế thôi để thấy sự khác nhau giữa chấp ngã và không chấp ngã là như thế nào. Càng chấp ngã thì con người càng đau khổ (Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột). Ngược lại, càng đạt đến sự vô ngã thì con người càng giảm bớt đau khổ. Đến vô ngã hoàn toàn thì không còn đau khổ nữa. “Vô ngã là Niết-bàn”.  

Trong y học, không có một loại thuốc nào có thể trị được bá bịnh, nhưng nếu ta có thể làm cho máu huyết lưu thông, điều hòa thì cơ thể sẽ được khỏe mạnh, không sinh các bịnh tật. Trong lĩnh vực tâm cũng thế, không có một pháp môn nào trị được tất cả các loại khổ của chúng sinh, nhưng nếu ta có thể quán thấy được thân này là vô ngã, không phải ta cũng không phải của ta thì đau khổ sẽ không còn. Bởi vì đơn giản là không có ta thì lấy ai biết hay cảm nhận sự đau khổ. Trước đây tôi không hiểu tại sao chỉ chiếu kiến ngũ uẩn giai không là có thể độ được tất cả khổ ách. Thì ra là như vậy. Cho nên chúng ta phải thường xuyên quán chiếu thân này không phải là ta, hay của ta để ta bớt vì thân mà đau khổ trong hiện tại cũng như khi cơn vô thường đến ta có thể nhẹ nhàng ra đi mà không luyến tiếc sắc thân vậy.
Thích Trung Hữu
____________
 (1) Tương ưng bộ, III, kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhana sutta), Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. http://samanta.vn/featured/kinh-vo-nga-tuong-2/ (Truy cập ngày 20-4-2020).
 (2) Thượng tọa Thích Thông Phương, Ta là gì? http://www.daitangkinhvietnam.org/node/4861 (Truy cập ngày 20-4-2020). 
(3) Lê Huy Tứ, Thiền hiện đại 7. http://chuaadida.com/chi-tiet-thien-hien-dai-7-6769.html (Truy cập ngày 20/4/2020).
(4) Kinh Tương ưng bộ, Tập iv - thiên Sáu xứ, chương I, Tương ưng sáu xứ, phần Hai - Năm mươi kinh thứ hai, II. Phẩm Migajāla, 69.VIl. Upasena (S.iv,40), Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2537 - 1993. https://thuvienhoasen.org/a705/35-chuong-i-tuong-ung-sau-xu (Truy cập ngày 20-4-2020). 
(5) Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn, Ba mươi ba vị tổ Ấn Hoa. Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành 1990. https://thuvienhoasen.org/a9808/ba-muoi-ba-vi-to-an-hoa (Truy cập ngày 20/4/2020). 
(6) https://vi.wikipedia.org/wiki/Tăng­_Triệu.
 (7) Thích Thông Phương, Tâm kinh Bát-nhã qua cái nhìn của nhà thiền. https://thuvienhoasen.org/a12144/tam-kinh-bat-nha-qua-cai-nhin-cua-nha-thien (Truy cập ngày 20-4-2020). 
(8) Như trên.
 (9) Kinh Tạp A-hàm, quyển 10, kinh số 269: Kỳ lâm. Hán dịch: Tam tạng Cầu-na-bạt-đà-la. Việt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & chú thích: Thích Tuệ Sỹ. Nhà Xuất bản Phương Đông. https://thuvienhoasen.org/p16a11447/tap-a-ham-quyen-10 (Truy cập ngày 20-4-2020).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8557)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7474)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6384)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5977)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4766)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5895)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6139)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6617)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5964)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7086)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6692)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4826)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7743)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9848)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5353)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6449)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5456)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5873)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5714)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7078)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6306)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10685)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6695)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6205)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6154)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6521)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5752)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7578)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6268)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9672)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4075)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6403)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4783)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5346)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5299)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5834)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6805)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5565)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4512)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5344)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5015)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6884)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4628)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7229)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7543)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant