Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về Nguồn

07 Tháng Mười Một 202206:13(Xem: 1496)
Về Nguồn

VỀ NGUỒN


Nguyễn Thế Đăng

Về Nguồn

 

1/ Nguồn

Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc. Rồi người ta bù đắp sự thiếu thốn ấy bằng danh vọng, tiền tài, quyền lực, bằng tình yêu và thậm chí bằng cả những điều xã hội không cho phép như các tệ nạn nhậu nhẹt, ma túy…

Sự thiếu thốn, thất lạc ấy được diễn tả nhiều trong văn chương và triết học: sự nhớ về quê hương hữu thể (Nolstalgie de L’Être). Quê hương Hữu thể ấy văn chương và tôn giáo thường gọi là nguồn. Như Bùi Giáng đặt tên cho tập thơ đầu tiên của mình là Mưa Nguồn, và cả cuộc đời ông là một hành trình trở về quê hương, trở về nguồn.

Tâm tình một nẻo Quê Chung
Đường về Cố Quận muôn trùng ta đi.

Đây là hai câu thơ của Huy Cận, nhưng Bùi Giáng đã viết nhiều lần trong thơ, khiến nhiều người tưởng là của ông, vì thấy cuộc đời ông cũng như thế thật.

Quê hương, gốc nguồn là một điều ám ảnh Bùi Giáng cả đời, và đó là nỗi ám ảnh đã làm nên sự nghiệp thơ ca của ông:

Hỏi quê rằng biển xanh dâu
Hỏi tên rằng mộng ban đầu đã xa.

Chữ “nhớ” được nhắc rất nhiều lần trong thơ ông:

…Ngõ về em có nhớ không
Bóng vang đầu nước hình lồng cuối sân
….
Mùa mây trên tháng năm còn
Ngày vui thứ nhất trái tròn sơ nguyên
Dâu Tần ngả nhánh nghiêng nghiêng
Ôi người cố quận nhìn em phương nào.
(Đi tìm)

Trong bài thơ viết về Đà Lạt, một nơi chốn hiện còn trong cuộc sống mỗi người, ông lại nhớ về một non nước đã mất mát, đã chia biệt không còn ai biết nơi đâu. Bài thơ kết thúc bằng bốn câu:

Non nước ấy chìm đâu em có biết
Dựng bên trời để nhớ để quên đi
Màu nước chảy để dư vang chia biệt
Vọng miên man trường hận thở than gì.        

Với Hàn Mặc Tử, sự thất lạc, mất mát, sự bị bỏ rơi ấy còn khốc liệt hơn:

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu.
(Những giọt lệ).

Martin Heidegger, một trong vài triết gia quan trọng nhất thế kỷ 20, mà chủ đề của ông là sự bỏ quên hữu thể hay bản tánh (l’oubli de l’Etre, Seinsvergessenheit). Chính vì sự bỏ quên hữu thể này mà con người đang ở trong một thời đại nguy hiểm. Hữu thể hay bản tánh còn được ông nói đến bằng những từ Nguồn gốc (Ursprung), Quê hương (Heimat), cái Thiêng liêng…

Quê hương đích thực, cội nguồn là nơi chốn mà triết học và thơ ca, tiểu thuyết luôn luôn tìm kiếm, bởi vì con người sinh ra đời trong một sự mất cội nguồn.

Nhan đề một cuốn sách của Albert Camus là L'exil et le Royaume được dịch là Lưu đày về Quê nhà (Trần Phong Giao và Vũ Đình Lưu dịch, Giao Điểm 1965). Trong Kinh Thánh và Kinh Pháp Hoa đều có câu chuyện chàng thanh niên khốn khổ quên mất đường về quê hương và khó nhọc tìm về.

2/ Nguồn như là đích đến của con đường Phật giáo

Số phận con người là lưu lạc và nó chỉ chấm dứt được sự lưu lạc khổ đau khi về đến quê hương:

Khách lâu ngày ly hương
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu
hoan đón chào mừng.
(Pháp Cú, Phẩm Hỷ Ái, 219, HT Thích Minh Châu dịch)

Quê hương, nhà, nguồn được nói nhiều trong kinh điển, ở đây chỉ nói về chữ Nguồn.

Những Kinh Đại Bát Nhã nói “Bát nhãtrí huệ tánh Không, sanh ra chư Phật, là mẹ của chư Phật”. Như thế nghĩa là tánh Không là mẹ, là nguồn sanh ra chư Phật.

Chư Phật chứng ngộ hoàn toàn tánh Khôngthị hiện ra đời từ tánh Khôngthuyết pháp và làm việc trong tánh Không, và nhập diệt là lại nhập vào tánh KhôngChúng sanh cũng thế, sanh ra đời với nghiệp tốt và nghiệp xấu của mình từ tánh Khônghiện hữu trong tánh Không, và chết đi với nghiệp tốt nghiệp xấu của mình trong tánh Không. Tất cả vũ trụ chúng sanh dầu nghiệp tốt và nghiệp xấu đều không thể ra ngoài tánh Không, không thể ra khỏi Nguồn tánh Không, dù có biết hay không biết.  Trong Kinh Đại Bát Nhã còn nói tánh Không đồng nghĩa với tánh Như.

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Hơn nữa, “Chúng sanh tức là Phật tánhPhật tánh tức là chúng sanh” (phẩm Bồ Tát Ca Diếp). Phật tánh “đều có” nơi tất cả chúng sanh nghĩa là Phật tánh là nguồn của tất cả chúng sanh. Và Phật tánh “tức là” tất cả chúng sanh nghĩa là Nguồn Phật tánh ấy vẫn thường hằng có mặt nơi chúng sanh, không vì nghiệp của chúng sanh mà hư hoại. Chúng sanh tức là nguồn Phật tánh nghĩa là chúng sanh vốn là Phật, như Kinh Viên Giác nói, “Chúng sanh bổn lai thành Phật”.

Một Tantra căn bản của Đại Toàn Thiện có nhan đề là Supreme Source, Kunjed Gyalpo, do Chogyal Namkhai Norbu và Adriano Clemente dịch và giảng, nxb Thiện Tri Thức 2018. Dịch ra tiếng Việt là Nguồn Tối Thượng Kunjed Gyalpo, Tantra Căn bản của Dzogchen Semde.

Nguồn chung ấy, theo Kinh Hoa Nghiêm là:

Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật, và chúng sanh
Cả ba không sai khác
(Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20).

Nói cách khác, tâm, Phật và chúng sanh, cả ba đồng nguồn.

3/ Về đến nguồn

Tất cả những con đường, những phương pháp, những pháp môn Phật giáo đều đưa chúng ta về đến nguồn ấy. Ở đây trích một ít kinh thông tin cho biết về đến nguồn sẽ như thế nào để người thực hành có thêm đam mêđộng lực mà đi tới cùng.

- Theo Kinh Đại Bát Nhã, nguồn ấy là “không có chỗ trụ” (vô sở trụ). Và vì nguồn không ở riêng một nơi nào cả nên nguồn ấy ở khắp tất cả chỗ, trong mọi không gian, trong mọi thời gian.

Về đến quê nhà thì thấy khắp cả đều là quê nhà, nghĩa là đều là tánh Không, tánh Như. Thế nên Kinh Viên Giác nói:

“Vì tất cả vốn là Giác vậy” (Chương Bồ tát Phổ Nhãn).

Kinh Kim Cương nói:

“Như Lai tức là nghĩa Như của tất cả các pháp… Thế nên Như Lai nói: Tất cả các pháp đều là Phật pháp”.

Thiền sư Thường Chiếu (?- 1203) có hai bài kệ:

Ở đời làm thân người
Tâm là Như Lai tạng
Chiếu sáng khắp muôn phương
Tìm đó lại trống không.

Và:

Đạo vốn không nhan sắc
Mỗi ngày mỗi mới khoe
Ngoài vô số cõi nước
Nơi đâu chẳng phải nhà.

Người chứng ngộ được nguồn tâm, “Tâm là Như Lai tạng” thì ở đâu cũng là quê hương, là nhà, là cội nguồn, “Nơi đâu chẳng phải nhà”.

- Khi về đến nguồn thì cảnh giới sanh tử bất tịnh của chúng sanh được chuyển hóa thành cảnh giới thanh tịnh Như Lai. Đó là vì tâm vô minh phân biệt bất tịnh của chúng sanh đã trở về nguồn tâm vốn thanh tịnh của Như Lai.

Đại Bồ tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Biết tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cảnh giới các cõi, tất cả cảnh giới của pháp, tất cả cảnh giới chúng sanhcảnh giới chân như không khác biệt, cảnh giới pháp giới không chướng ngạicảnh giới không có cảnh giới, đều là cảnh giới Như Lai”.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai Xuất Hiện thứ 37).

Khi về đến nguồn thì tất cả mọi cảnh giới của chúng sanh, núi sông, đất đai, cây, đá… đều là cảnh giới của nguồn tánh Không – tánh Như thanh tịnh vậy.

- Các Kinh Đại thừa thường nói, “sanh tử tức là Niết bàn”. Ở đây trích một câu trong Kinh Viên Giác, phẩm Phổ Nhãn, để hiểu ở nguồn thì sanh tử và chúng sanh sẽ được thấy như thế nào.

“Mới biết chúng sanh xưa nay thành Phậtsanh tử Niết bàn giống như giấc mộng đêm qua”.

“Sanh tử Niết bàn giống như giấc mộng đêm qua”: Sanh tử và Niết bàn đồng là tánh Không, đồng một nguồn tánh Không – tánh Như. “Mới biết chúng sanh xưa nay thành Phật”: chúng sanh và chư Phật đều đồng nguồn, đều xuất hiện từ đồng một nguồn tánh Không - tánh Như.  

Đồng nguồn, đó là đại từ đại bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1661)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1634)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1037)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1514)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1944)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1535)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1558)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1285)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1697)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3008)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1366)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1412)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1692)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2130)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2237)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1979)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2032)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1948)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1892)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1946)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2312)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1986)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2099)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1913)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2421)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2326)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4001)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2489)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2048)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1800)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3313)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2347)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2703)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2025)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant