Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya

08 Tháng Mười Một 202206:18(Xem: 1522)
Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya
Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya

Tâm Tịnh 

Phật Thị Hiện Thuyết Pháp


Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộcphổ biến đối với quý Phật tử Đại ThừaThuật ngữ này không thấy xuất hiện trong Tam Tạng Kinh Điển Thượng Tọa Bộ, hay Phật Giáo Nam Truyền. Tuy nhiên, trong các kinh bổn sinh, thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikàya, quý bạn đọc có thể nhận biết ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ thông qua những sắc tướng bàng sinh như con nai thuyết pháp, con chó thuyết pháp, con gà thuyết pháp, con quạ, con két vv thuyết pháp bằng giọng người, và giáo pháp của ‘quý bàng sinh’ này tồn tại ở đời 10 ngàn năm, 40 ngàn năm có khi lên đến 60 ngàn năm, khiến vô lượng hữu tình bỏ tà theo chánh, bỏ trượng, bỏ kiếm, đoạn ác tu thiện, sống an vui và sau khi xả bỏ thân mạng, được sinh về thiên giới hay cõi đời này, hưởng sự vui ‘thù thắng’ do thiện nghiệp tích tập trong đờiĐặc biệt, có những chân ngôn chẳng hạn từ con chim công (Tiền thân 491) khiến người nghe hốt nhiên đại ngộ, thấu hiểu đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, thâm nhập tri kiến Bích Chi Phậtgiải thoát sinh tử. Trong bài luận này ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề sau: 1) Làm sao nhận biết Phật thị hiện thuyết pháp? 2) Phật thị hiện thuyết pháp bằng cách nào? 3) Tại sao Phật thị hiện thuyết pháp?

1.  Làm sao nhận biết Phật thị hiện?

Trong Tiểu Bộ Kinh Nikàya có nhiều tích truyện bổn sinh kể về các loài bàng sinh thuyết pháp. Trong bài luận này, để trả lời ‘thích đáng’ ba vấn đề nêu trên, bút giả xin trích dẫn câu chuyện tiền thân số 388 Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila) và những vần kệ tương ưngphù hợp với ý nghĩa và mục đích của bài viết này.   

Nội dung chính của câu chuyện 388 xin được tóm tắt như sau:

Một cụ bà nuôi hai con heo rừng, được cụ mang về từ khi còn rất nhỏ do heo mẹ bỏ rơi trong rừng. Bà rất thương hai chú heo như con mình nên cho chúng ăn ngon và chăm lo chúng chu đáo, theo thời gian hai chú heo lớn và béo tròn. Có nhiều người đề nghị bà cụ bán chúng nhưng bà kiên quyết nói ‘không’ vì thương chúng như con. Một hôm có 30 người uống rượu năn nỉ bà bán, nhưng vẫn không thể làm bà lung lay. Cuối cùng bọn họ phục bà cụ uống rượu say và bà đồng ý bán một con. Bà nói chỉ bán con heo em và không bán con heo anh (Bồ Tát là con heo anh, tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Con heo em biết mình sắp bị làm thịt nên sợ chết, khóc lóc. Nhân đây, Bồ Tát (con heo anh) liền thuyết pháp với dáng an tịnh của một vị Phật:

Người không sinh mạng là vui

Người còn sinh mạng bời bời lo toan

Con người phải chết chớ buồn

Phải vui như hội trăng tròn quanh năm.

Trong khi ngài xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam và ngâm hai vần kệ đầu, giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến đây, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Quân sĩ nhà vua chặt hết bụi cây, san bằng mặt đất và rải cát lên. Đám người thô tục đã tỉnh cơn say rượu, liền quăng bỏ thòng lọng và đứng nghe Phápbà già nọ cũng tỉnh rượu luôn. Bồ-tát bắt đầu thuyết Pháp cho Heo bé giữa đám quần chúng.

Như vậy bậc Đại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Đám đông hàng ngàn người búng ngón tay, vẫy khăn tung hô và bầu không khí vang dậy tiếng reo:

Tốt lành thay, tốt lành thay!

Vua Ba-la-nại tôn kính mời Bồ-tát lên vương tọa, và làm cho bà già vinh hiển bằng cách truyền tắm hai chú Heo với nước tẩm hương, mặc lễ phục, trang điểm vàng ngọc trên cổ và ban cho địa vị các vương tử trong kinh thành. Vì thế vua bảo vệ hai chú Heo với một đoàn quân hộ tống đông đảo.

Bồ-tát dạy Ngũ giới cho vua và tất cả dân chúng ở Ba-la-nại cùng Kàsi đều giữ Ngũ giới. Bồ-tát thuyết Pháp cho dân chúng vào các ngày trai giới (mồng tám và rằm) và ngồi xử án. Trong thời gian còn tại thế, không có người nào chịu bản án bất công cả. Sau đó vua băng hà, Bồ-tát cử hành tang lễ của vua, rồi ngài truyền viết một sách ghi đủ các phán quyết và bảo:

- Các vị phải theo sách này để xử án.

Sau khi thuyết Pháp cho quần chúng với nhiệt tâm, Ngài cùng chú Heo bé đi vào rừng trong lúc quần chúng than khóc kêu gào. Lời thuyết giảng của Bồ-tát lưu truyền suốt sáu mươi ngàn năm sau.

(Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền thân số 388. Con Heo Mõm Dài).

Như vậy, có bốn căn cứ trong đoạn trích tóm lược trên chỉ dấu cho thấy Phật hay Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ thị hiện thuyết pháp.

1.1 Vần kệ cho thấy ‘ta (con heo) từ ‘chỗ’ vô sanh mà sanh

Người không sinh mạng là vui (con heo anh từ chỗ vô sanh mà sanh nên an vui, không sợ hãi)

Người còn sinh mạng bời bời lo toan (con heo em chấp vào sắc tướng giả tạm này của mình nên lo toan u sầu than khóc vì sợ mất mạng ‘huyễn hoặc’ này.)

Vần kệ đầu tiên cho thấy con heo từ chỗ vô sanh mà sanh, tức là từ Pháp thân (Phật hay Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ, từ Bát Địa - Thập Địathanh tịnhthường trụbất biến, không sanh, không diệt, không nghiệp, không báo mà sanh, vì thường tịch lặng nên được an vui (chơn lạc). Câu kệ này còn có nghĩa là ‘Sắc’ (con heo) tức là ‘Không’ (từ nơi chơn nhưkhông tánh mà sanh). Chỗ này tương đương với hai câu kệ sau đây trong Kinh Hoa Nghiêm:

Thân Phật vốn vô sanh
Mà thị hiện xuất sanh.

 (Phẩm Như Lai Hiện Tướng thứ 2).

Như vậy, vần kệ trên chỉ dấu cho thấy con heo anh vốn vô sanh (Pháp thân Phật) mà thị hiện xuất sanh để thuyết pháp.

1.2  Thập hạnh viên mãn ba-la-mậtTrong khi ngài (con heo anh) xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam

Trong Chánh Giác Tông hay Phật Sử (Tiểu Bộ Kinh Nikàya, Pali tạng), Bồ Tát tu tập viên mãn thập ba-la-mật là Bồ tát sắp thành Phật, tương đương với Bồ Tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa như Bồ Tát Di LặcBồ Tát Văn Thù Sư LợiBồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ Hiền vv. Bồ Tát ở địa này, thân tự tại tùy duyên ứng hiện hóa độ chúng sanh trong các cõi nước khắp mười phương. Như vậy, con heo là chỗ thị hiện của Bồ tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa, hay Pháp thân Phật.

Mười phương vi trần cõi

Lưới sáng trùm khắp nơi

Quang minh đều có Phật

Khắp hóa độ quần sanh.

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

1.3 Thuyết pháp với dáng an tịnh của một vị Phật

Chư Hiền Thánh Tăng kết tập kinh điển đồng tâm nhất trí trong việc dùng ngôn từ như bậc Đại sĩ, vị Phật dành cho con heo anh trong khi thuyết pháp “Bậc Đại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật.”, hàm ý Phật thị hiện qua sắc tướng con heo để thuyết pháp cho đại chúng xứ Ba-la-nại và xứ Kasi.

1.4 Pháp âm vô ngại

Không những bậc Đại Sĩ thuyết pháp cho con heo em mà cho cả những người xung quanh, và hơn thế nữa giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến chỗ con heo đang thuyết pháp, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Lời thuyết pháp của ngài vô chướng ngại vì Thanh Không (không thêm, không bớt, không sanh, không diệt, không nghiệp, không báo, không trước, không sau, chẳng động, chẳng khởi, vv). Pháp âm đồng một âm thanh, chẳng phải âm thanh của loài heo mà nghe như tiếng loài heo, chẳng phải âm thanh của loài người, nghe như âm thanh (giọng) người. Tùy theo nghiệp báo sai biệt nên nghe khác nhau. Vì Thanh Không, nên không có chướng ngại về mặt không gian và thời gian, tức là sự sự vô ngại. Cho nên chân ngôn không những con heo em được nghe hiểu, những người tại chỗ được tín thọ, mà còn vượt qua không gian 12 dặm đến cung vua Ba-la-nại khiến vua quan và thần dân tìm đến chỗ con heo để nghe thuyết pháp, và ngay cả những người ở tại nhà của mình cũng nghe được pháp âm của ngài, một bậc Đại Sỹ, một vị Phật qua sắc tướng con heo anh.

Thế Tôn hay diễn một âm thanh
Hữu tình mỗi mỗi tùy loài giải.

(Phẩm 4. Nhân Địa Pháp TạngPhật Thuyết Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Hán Văn: Cư Sỹ Hạ Liên Cơ kết tập. Việt Văn: Tâm Tịnh.)

2.  Phật thị hiện bằng cách nào?

2.1 Từ Tánh Không (hay Pháp thânPhật tánh) mà đến

Đồng tử Thiện Tài thưa: Đại Thánh từ xứ nào đến?

Bồ tát Di Lặc nói: Chư Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đếnKhông đi không trụ (dừng ở), như vậy mà đến. Không xứ sở, không bám chấp, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến.

(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Nhập Pháp Giới, thứ 39)

Đoạn kinh văn trên cho thấy chư Đại Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ như Bồ Tát Di Lặc, hay chư Phật từ nơi Tánh KhôngPhật tánh hay Pháp thânQuang minh thanh tịnh mà đến, mà thị hiện, mà hóa hiện.

Quang Minh hóa hiện thành đài tòa

Quang minh thanh tịnh đấng biến tri

Trong vật trang nghiêm đều hiện bóng.

(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Hoa Tạng thế giới, thứ 5)

Vần kệ thứ nhất, “Người không sinh mạng là vui”, có nghĩa là: con heo anh từ nơi vô sanh mà sanh, tức là Tánh KhôngPháp Thân thanh tịnh mà thị hiện thân heo như huyễn (hiện bóng) để thuyết pháp.

2.2 Như Đại Nguyện ‘thuở xưa” mà đến

Bồ Tát Di Lặc dạy: Này, Thiện nam tử (Thiện Tài Đồng Tử), Bồ Tát từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì (Nhập Pháp Giới, thứ 39).

Như vậy, Chư Phật, chư đại Bồ Tát nhờ nguyện lực thuở xưa mà thị hiện.

3.  Tại sao Phật thị hiện?

Vì muốn điều phục và cứu hộ chúng sanh, chư Phật, Bồ Tát từ nơi đại từ đại bi mà đến, mà thị hiện

Này thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanhTừ nơi đại từ mà đến vì muốn cứu hộ các chúng sanh (Nhập Pháp Giới, thứ 39).

Trong tích truyện 388 này có đoạn, “Trong khi ngài (con heo anh) xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam”, chỉ dấu cho thấy  bậc Đại sỹ vì lòng đại từđại bi mà đến, mà thị hiện thành con heo thuyết pháp cứu mạng con heo bé, thuyết pháp ngũ giớibát quan trai giớithập vương pháp (Bố thínhân từđức hạnh, công bình, thân ái, nhu mì, ôn hòanhẫn nhụcĂn năn, bi mẫn) cho vua quan, thần dân của vương quốc Ba-la-nại và cả xứ Kasi để họ bỏ tà theo chánh, bỏ trượng, bỏ kiếm (đoạn tận sát sanh), đoạn ác tu thiện, khiến cho nhà nhà lạc an, đất nước thái bình, mưa thuận gió hòa, mọi hữu tình đều được sống an yên, hạnh phúcGiáo pháp của Ngài tồn tại ở đời sáu mươi ngàn năm, mang lại lợi lạc lâu dài cho mọi người và mọi loài.

Để ý kỹ có thể nhận thấy rằng câu kệ đầu, Người không sinh mạng là vui, là chân pháp bất tử, dường như là một sự tuyên bố rằng: Ta (con heo) từ ‘nơi’ vô sanh mà sanh, hơn nữa để trấn an con heo em không chấp vào sắc thân như huyễn. Trong khi đó, những lời pháp của Ngài cho đại chúng chỉ chú trọng vào ngũ giớibát quan trai giới và thập vương pháp, mà không thuyết pháp ‘bất tử’, với mục đích để mọi người đoạn ác tu thiện, để có cuộc sống hiền thiện, an lạc trong đời sống hiện thời, và đời sau được tái sinh về thiện thú.

Trong khi đó, chuyện Đại Khổng Tước số 491, Ngài là con chim công thuyết pháp cho người thợ săn, và sau khi nghe thời thuyết pháp ngắn gọn, người thợ săn thấu hiểu tường tận pháp chân đế và trở thành một Bích Chi Phật như đoạn trích sau đây:

Trong lúc người thợ săn nghe bài thuyết Pháp của ngài, ngay tại chỗ người ấy đang đứng, người ấy hiểu lập tức mọi yếu tố cấu tạo nên các vật hữu hình (tứ đại), thấu suốt cả ba đặc tính căn bản của chúng (đó là: vô thường, khổ, vô ngã) và thâm nhập tri kiến của một Độc Giác phật.

 (Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền Thân số 491. Chuyện Đại Khổng Tước (Tiền thân Mahà-Mora).

4.  Kết luận

Như vậy, từ lòng đại từ đại bi và từ đại nguyện ‘năm xưa’ vì muốn điều phục và cứu độ chúng sanh mà quý ngài xuất hiện. Tích chuyện 388 này được xem như là một sự thị hiện của Bồ Tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa (đã thành tựu viên mãn thập Ba-la-mật), hoặc Pháp Thân Phật qua sắc tướng con heo thuyết pháp, mang lại an vui, hạnh phúc cho loài người và muôn loài chúng sanh trong một thời gian lâu dài (60 ngàn năm). Ngoài ra, còn nhiều tích truyện tiền thân khác thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikàya cho thấy Phật hay Bồ Tát thị hiện để ban vui, cứu khổ hữu tình chúng sanh, chẳng hạn chuyện tiền thân số 22 Con Chó Rừng Hiền Trí, không những cứu đàn chó rừng thoát cảnh diệt vong, mà còn thuyết pháp cho vua, cận thần, binh sĩ và thần dân để toàn vương quốc sống hiền từ và an lạcĐặc biệt, chuyện tiền thân số 23 và 24 cho thấy Phật hay Bồ tát thị hiện con Ngựa thuần chủng, hy sinh cả tính mạng của mình để cứu tám quốc gia khỏi cảnh chiến tranh tương tàn, và trước khi xả thân mạng ‘ngựa’ huyễn hoặc vì bị thương nặng, Ngài (con ngữa Sindl thuần chủng) thuyết pháp cho tám vị vua, và từ đó nhân dân tám quốc gia sống an hòa, thái bình, như được đúc kết bằng những vần kệ cảm tác sau:

Vương Mã Sindh Trí Dũng

Tiền Thân có kể chuyện rằng

Ba La Nại Quốc phú cường dân đông

Nhưng rồi Trú Xứ bị vây

Bởi vua bảy nước tiến quân chiếm thành

Vua kia phái một kỵ thần

Xông vào trận tuyến cùng Ngựa Sin-dh

Vương Ngựa thuần chủng giống rồng

Phi nhanh nướt đại xé tan quân thù

Bắt ngay năm vị vua đầu

Đến vua thứ sáu bị gươm đâm người

Máu ra đau đớn khôn cùng

Ngựa không chịu nghỉ dưỡng thương đầu hàng

Khuyên người Kỵ sĩ bó băng

Lao ngay vào chốn ba quân không người

Bắt ngay hoàng đế cuối cùng

Mang về ra mắt Vua thành Bratta

Lại khuyên Vua thả cừu quân

Sống nhu hòa thuận an yên nhân quần

Khuyến Vua thưởng phạt công minh

Theo thập vương pháp toàn dân chan hòa

Ngay khi vừa dứt Lời Vàng

Sin-dh nhắm mắt ra đi an lành!

(Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền thân số 23. Chuyện con ngựa thuần chủng (Tiền thân Bhojanìya)

Cứu giúp bằng đạo lý là công hạnh của các vị Bồ Tát hoặc những hành giả Đại Thừa phát Vô Thượng Tâm, tu Bồ Tát Đạo, được ghi lại trong nhiều Kinh Đại Thừa Phật Giáocụ thể như sau:

Thường làm theo tâm từ

Từ bỏ tưởng giận hại

Đại bi thương chúng sanh

Quặn lòng rơi nước mắt

Tu làm thân đại hỷ

với mình cũng đắc pháp

Cứu giúp bằng đạo lý

Ấy là Bồ Tát Hạnh.

(Kinh Hiền Ngu. Phẩm I. Phạm Thiên Thỉnh Pháp. Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch từ Hán Văn)

Tâm Tịnh cẩn bút                              

Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới

Đồng sanh Tây Phương Tịnh Độ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1536)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1669)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1641)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1503)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1681)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1948)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1539)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1365)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1565)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1154)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1701)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3015)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1828)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1282)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1416)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1327)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1696)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1898)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2397)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1787)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2136)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2242)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2306)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1860)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1983)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1961)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2599)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1953)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1896)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1956)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1902)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2174)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2322)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1992)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2106)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1890)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1917)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2426)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2332)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4013)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2502)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3208)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2488)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2055)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1805)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3318)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2352)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3038)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2712)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant