Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý NghĩaĐặc Tính Của Duyên Khởi

14 Tháng Mười Một 202211:28(Xem: 1664)
Ý Nghĩa Và Đặc Tính Của Duyên Khởi

Ý NghĩaĐặc Tính Của Duyên Khởi

Thích Nữ
 Như Hạnh

Ý Nghĩa Và Đặc Tính Của Duyên Khởi


Tóm tắt
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật. Bài viết khảo cứu nội dung, ý nghĩa và đặc tính của Duyên khởi dựa trên một số kinh văn tiêu biểu trong kho tàng kinh điển Phật giáo. Từ đó, nhận chân giá trị vô cùng to lớn của Duyên khởi, xem đây là chìa khóa để giải thích và cải tạo thân tâm mỗi chúng ta trên đạo lộ giác ngộ.

DẪN NHẬP

Nói đến đạo Phật là nói đến đạo của từ bi và trí tuệGiáo lí đạo Phật như một hệ thống sông, suối, mạch nước ngầm… làm mềm mại, tươi nhuận, sung mãn vạn vật từ đất liền ra đến biển cả. Hòa vào tinh thần nhất quán đó, giáo lý Duyên khởi trong kho tàng Pháp bảo của Đức Thế Tôn đã trở thành sợi chỉ đỏ xâu kết mọi giáo lý, khiến những lời vàng ngọc của bậc Thiện Thệ trong suốt 45 năm hành đạo là một tổng thể bất khả phân ly. Chính giáo lý này đã có lúc khai triển, có lúc quy nạp để nói lên sự thật mọi hiện hữu của pháp giới là biến dịch không ngừng, hàm chứa khổ đau và không có tự ngã. Đặt mình giữa mọi mối tương tác, liên quan với vũ trụ, người học Phật cần phải hiểu rõ hơn về ý nghĩađặc tính và tầm quan trọng của giáo lý này để chỉnh đốn lại những giá trị hiện thực đang bị bóp méoĐồng thời từ đó, mỗi ngày ta bớt đi chút tham lam, nhỏ mọn, lắng dịu dần cơn phẫn nộ hờn ghen và bớt đồng nhất mình trong những quan kiến mập mờ, không sáng tỏ

TỔNG QUÁT VỀ DUYÊN KHỞI

Giữa khi nhân loại đang chìm ngập trong hố sâu của ngã chấpduyên sinh vô ngã ắt không phải là tiếng nói mang ý nghĩa cứu tinh bởi các đấng tối caoVì lợi ích giải thoátĐức Thế Tôn đã trình bày Duyên khởi dưới dạng thức mười hai chi phần nhân duyên và tinh túy chính là định lý: “Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sanh, cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt” [1]. 

Thuyết Duyên khởi (sa. pratītyasamutpāda, pi. paṭiccasamuppāda) được gọi là Nhân duyên sinh, cũng có tên khác là Thập nhị nhân duyênDuyên khởi là giáo lý căn bản, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Đức Phật. Nói dễ hiểu là khi tiếp nhận một điều kiện, nó phát sinh ra một hiện tượng của pháp. Qua đó, mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, dệt nên thế giới hữu tình và vô tình. Thuận theo dòng lưu chuyển ấy, chúng sanh hữu tình trôi lăn trong luân hồi (saṃsāra). Ngược lại, với sự quán triệt hoàn diệt thì sớm có thể khép kín được ngục tù khổ đau sanh tử

Ý NGHĨA CỦA DUYÊN KHỞI

Vận dụng tất cả các khái niệm dù trừu tượng hay được hiển bàygiáo lý Duyên khởi đã thức tỉnh chúng ta rằng: Vạn vật không thể chối bỏ, chạy trốn nhau nếu đó là một chuỗi các kết nối được gắn kết, thi thiết bởi các hạng mục xoay quanh 12 mắt xích. Đâu đó giữa vòng pháp luậtcon người có thể lợi dụng kẽ hở luật pháp (lách luật) nhưng dưới con mắt của đạo lý duyên sinh nghiệp báo, không ai có thể khoét vách, đào tường, vượt khỏi tầm kiểm soát của luân lý.  

Trong khi nhấn mạnh quá trình sinh diệt của các pháp được nhìn nhận dưới mô thức: “Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sanh, cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt” [2], người học Phật không thể xem đó là một tương tác máy móc. Duyên khởi không có nghĩa hễ có trong thì có đục, có phạm pháp thì có luật pháp, có luật pháp thì có phạm pháp, mà với điều kiện này thì con người, sự việc đó trong sạch, với điều kiện kia thì con người, sự việc kia ô nhiễm. Lý Duyên khởi không đề cập đến sự phát sinh do tương phản mà đây là sự tương quan bình đẳng, là sự thay đổi của một pháp khi tiếp nhận một yếu tố nào đó. Công thức này còn trình bày mối tương quan mang tính nhân và quả, đặc biệt là tính chất nhân quả đồng thời không phải trước hay sau. Tính chất nhân quả đồng thời này được trình bày qua câu đầu với hai mệnh đề: một là viết câu theo vị trí chuyển đổi, nói tới mặt luân chuyển của Duyên khởi; hai là tính tồn tại của nhân và quả.“Do cái này sinh nên cái kia sinh” [3] là mệnh đề theo điều kiện mà ở đó mô tả tính tất yếu giữa nhân và quả, giữa các duyên tiếp nhận và hiện tượng phát sinh. Chính vì có sự tương ứng giữa nhân và quả nên con người không thể nào chấp nhận những thành quả với lối tư duy lệch lạc rằng: nấu cát thành cơm được. Như vậy, với điều kiện và tính tất yếu giữa nhân và quả trong định lý này, nó sẽ phủ nhận tính chất vô nhân. Do đó, tính chất ấy được gọi là pháp trụ

“Cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt” [4] trình bày về phương diện xuất thế, về quán hoàn diệt. Điều đó cho thấy tính chất của Duyên khởi không phải mô tả một cá thể này sinh ra một cá thể khác, một ngã thể sinh ra một ngã thể, như: cha tôi sinh ra tôi, vị thần sanh ra tôi… Tính chất của Duyên khởi là pháp không tự nó sinh ra cũng không do một pháp khác sinh ra. Pháp là một hợp thể, là một sự biến đổi theo điều kiện mà nó tiếp nhận. Như ngũ uẩn là một hợp thể, một ngày mình tiếp nhận bao nhiêu hoàn cảnh, đối tượng… là bấy nhiêu lần mình xuất hiện với bộ dạng, cung cách ứng xử khác nhau. Như vậy, Duyên khởi đã trình bày sự biến đổi của ngũ uẩn theo điều kiện, không phải trình bày theo sự phát sinh của một pháp từ một pháp khác. Điều đó chứng tỏpháp không do tha sinh, không do tha tự sinh. 

Và để giải thích rõ ràng hơn về những khổ đau của con người từ đâu sinh diệtĐức Thế Tôn đã dạy: “Ở đây, này Ananda, Tỳ kheo biết như sau: “Nếu cái này có, cái kia có; do cái này sinh, cái kia sinh. Nếu cái này không có, cái kia không có, do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc… sầu, bi, khổ, ưu, não” [5].  Trong chuỗi mắt xích này hiện hữu vô số pháp, mỗi pháp khi tiếp nhận điều kiện sẽ sinh tồn hay hoại diệt tùy theo sự biến đổi về điều kiện của nó. Song, Duyên khởi được Đức Thế Tôn nhắc đi nhắc lại ở rất nhiều kinh điển, về số lượng các chi phần được triển khai có khác, nhưng sẽ không có một sự cao thấp, chênh lệchsai biệt nào về mặt giải thoát. Như trong A Hàm mặc dù giới thiệu mười hai chi phần nhưng thực chất chỉ khai triển mười chi, điển hình là bản Kinh Đại Duyên Phương Tiện không liệt kê chi vô minh và hành. Một số kinh hệ Pali khai triển chín chi, tức bỏ thêm phần lục nhập và một số khác nữa thì đề cập đầy đủ 12 chi. Và để hiểu rõ ràng hơn, người học nên tìm hiểu cả mười hai chi phần này. 

Trước hết là chi phần Vô minh: Tức không hiểu rõ Tứ Thánh đế, mù mờ về duyên sinh vô ngã, không như lý tác ý, thường say đắm dục lạc đời sống mà bản chất của nó thực sự là khổ đau. Nhưng vô minh không phải là nguyên nhân đầu tiên, càng không phải là nguyên nhân duy nhất. Nói bằng ngôn ngữ đời thường thì vô minh là ngu dốt, là không sáng. Trong dòng năng lượng liên tục của nghiệp nếu nhận lấy một bọt nước của nghiệp làm bản thânngã sở của mình đó là vô minh, là dại khờ. Theo đó, mọi hoạt động diễn ra nên gọi là “hành”. Trong kinh phân chia thành 3 loại hành: Phước hành, phi phước hành và bất động hành.  

Phước hành: những hoạt động đem lại kết quả của nhân thiên. Phi phước hành: những cái hành đem lại sự đau khổ phi phước của địa ngụcngạ quỷsúc sanhBất động hành là những hành của thiện quả đưa tới tâm bất động của sắc giới và vô sắc giới. Nói ngắn gọn, hành là tất cả những hành động thiện hay bất thiện được biểu hiện bằng thân, khẩu, ý mà đem lại phản ứng. Hành trong sạch đưa đến tái sanh tốt. Vô minh và hành thuộc về kiếp sống quá khứ.

Còn “thức” là yếu tố đầu tiên của kiếp sống hiện tại, là mô thức đời sống do hành đem lại. Tâm hay thức cũng là pháp hữu vi, do đó tâm không thể trường tồnbất biến. Từ nơi mô thức này tiếp tục phát triển ra danh sắclục nhập, phát triển ra những cơ quan, những giác quan tiếp nhận điều kiện để có sự giao tiếp. Ở đó, danh sắc và thức tương quan lẫn nhau, làm nhân, làm điều kiện cho nhau mà luân chuyển, dòng sóng này chính là tính chất luân chuyển của Duyên khởi khi hình thành thế gian. Đó là giới hạn giữa thức và danh sắcVật lýtâm lý là cơ sở để tiếp nhận duyên. Khi tiếp nhận duyên với xúc thì nó có cảm thọ khổ, sướng, không khổ không sướng. Còn vai trò của ái, thủ, hữu là quyết định tính chất của thức, danh sắclục nhập, cũng như xúc và thọ. Ái là tham dục, tham hưởng thụ và tình dục. Từ thọ có tham ái, từ thọ có tiếp xúc. Từ tiếp xúc mà khởi lên ưa, ghét; thích hay không thích. Và chính sự lựa chọn này mà truy đuổi theo đối tượng được lựa chọn để đạt được cái mình mong muốn. Tuy nhiên, ái chỉ là một tâm lí phát sinh ra do con người khởi lên thích chứ chưa nắm bắt, chưa chạy theo đối tượng. Thủ là truy bắt đối tượng theo cái ái của mình. Sự truy bắt đối tượng, đeo đuổi đối tượng, hoạt động đó được định hình dưới 4 lớp nghĩa: dục thủkiến thủgiới cấm thủ, ngã luận thủ. Truy bắt theo dục thủ là truy bắt theo những ham muốn vật chấtKiến thủ là chạy theo những quan điểm về đời sống của tôi, tôi thấy như thế này, tôi thấy như thế khác, rồi hình thành đời sống theo cách của riêng tôi. Giới cấm thủ là hành động theo những điều sai trái, không phù hợp lý nhân quả và cho rằng làm theo chúng sẽ đạt được đời sống thanh tịnh quả. Ngã luận thủ là chấp lấy những danh từ dùng để kí hiệu các sự vật được cho là tôi, là của tôi. 

Tất cả những chấp thủ này đều để lại năng lượng của nghiệp và dần tích lũy thành các kinh nghiệm về đời sống của tôi. Năng lượng của một hoạt động để lại gọi là hữu. Năng lượng này dẫn tới sinh. Kết sinh thức là năng lượng một đời sống mới của mình. Một dạng năng lượng này khi thể nhập vào đời sống hiện tại của mình nó sinh ra già, chết, được gọi là nhân hay hoặc. 

Từ đó cho thấy, tính chất Duyên khởi về mặt thế gian là khi con người ta mới bắt đầu chấp thủ thì đời sống được hỗ tương lẫn nhau giữa thức và danh sắcTính chất luân hồi có điều kiện là khi mình chấp thủ trước vào một cái gì để có hoạt động, bây giờ đời sống của mình không thoát được. Đức Phật dạy: “A-nan, Ta do lẽ đó, biết thức do danh sắc; duyên danh sắc mà có thức. Nghĩa của Ta là ở đó. Vậy nên, danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắcdanh sắc duyên lục nhậplục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, ưu bi khổ não, tập thành một đại khổ ấm. Này Anan, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự phô diễn, trong giới hạn ấy là trí quán, trong giới hạn ấy là chúng sanh”[6].

CÁC LOẠI DUYÊN KHỞI

Ngoài cách liệt kê 10 duyên hay 9 duyên, Đức Phật còn chia Duyên khởi làm 3 loại: Duyên khởi 5 chi, Duyên khởi 7 chi, Duyên khởi 10 chi. Duyên khởi 5 chi gồm: thủ, ái, hữu và sinh, lão tử để mô tả hiện tượng đời sống luôn xung đột, đấu tranh khốc liệt lẫn nhau trong hiện tại của con ngườiDuyên khởi 7 chi mô tả sự hình thành đời sống con người do dựa vào việc chấp thủ 2 yếu tố tưởng và thọ. Duyên khởi 7 chi bắt đầu từ xúc, do xúc mà có thọ, duyên nơi thọ mà có ái thủ. Duyên khởi 10 chi bắt đầu từ thức tới lão tử. Loại duyên khởi này mô tả đời sống tuần hoàn của chúng sanh qua hoặc, nghiệp, khổ. Các chi phần vô minh, ái, thủ thuộc tâm lý “hoặc”; các chi phần hành, hữu thuộc “nghiệp” và các chi phần còn lại thuộc tâm lý “khổ”. 

Ngoài ra, với sự phát triển của hệ thống tư tưởng Đại Thừa Phật giáogiáo lý Duyên khởi được cách tân, nhập thế sâu sắc nhằm khai triển cho mọi tầng lớp tín đồtăng lữ dễ tiếp thu nguồn giáo lý uyên áo, sâu màu của đạo Phật cũng như vạch ra con đường tu tập giải thoát cho mọi hành giả. Thế nên, Duyên khởi đã phát triển thành A-lại-da Duyên khởiChân như Duyên khởiPháp giới Duyên khởiLục đại Duyên khởiThực tại Duyên khởi… Chính sự vươn mình này của Duyên khởi trong thế giới thực tại cho thấy đây là một tổng thể bất phân, đạt đến tầm khế thời, khế lý, khế cơ thúc đẩy mọi quan điểm tư duynhận thức vào thực trạng duyên sanh vô ngã. Để rồi, giữa những ngổn ngang và rối ren của kiếp sống, duyên sinh vô ngã chính là chiếc chìa khóa vạn năng tháo gỡ mọi bế tắc tư tưởng về nhân sinh và vũ trụ.

ĐẶC TÍNH DUYÊN KHỞI

Thông qua tất cả sự hiển bày, lý Duyên khởi cho thấy: Tất cả các pháp hữu vi đều do duyên sinh. Sự sinh diệt của một pháp thực ra chỉ là sự có mặt hay hoại diệt của nhơn duyên sinh ra nó. Nói rõ hơn là các pháp không có thật sinh hay thật diệt. Chính Đức Thế Tôn từng nói: “Pháp Duyên khởi ấy, dù có Như Lai xuất hiện hay không xuất hiệnan trú là giới tánh ấy, pháp quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt định lý ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt, Như Lai tuyên bốtuyên thuyết, khai triển, khai thị, phân biệtminh hiển, minh thị”. Ngài dạy: “Duyên vô minh, này các Tỳ kheo, có các hành,… Như vậy, này các Tỳ kheo , ở đây là như tánh, bất hư vọng tánh, bất dị như tánh, y duyên tánh ấy. Này các Tỳ kheo, đây gọi là Duyên khởi”. Về bốn danh từ nói về lý Duyên khởi ở trên, được Tập Sớ giải thích như sau: lý duyên sinh này trú như vậy, không có một sanh, già, chết,… nào không có duyên sinh (Paccaya). Do duyên nên có các pháp khởi lên, tồn tại, do vậy nên gọi là Pháp trú tánh ấy (Dhammatthitata). Các duyên ra lệnh hay an trú các pháp, do vậy được gọi là pháp quyết định tánh. Các duyên của sanh già… là các duyên đặc biệt gọi là y duyên tánh. Thế nào là duyên sinh pháp (hay pháp do duyên sinh)? Gọi là duyên sinh pháp là các pháp được tác thànhhữu vibiến hoại, tan rã, đoạn diệtvô thường [7]. Căn cứ vào sự xác nhận này, cho thấy: Duyên khởi là Phật tính đối với tất cả loài hữu tình và là pháp tính đối với tất cả chúng vô tình. Nhưng dù Duyên khởi được biểu hiện trong hình thức nào, pháp ấy vẫn có tính thường trú, tính quyết định và tính y duyên. Trước hết, Duyên khởi là nguyên lý có tính thường trú. Nghĩa là tất cả pháp trong quá khứhiện tại và vị lai đều do duyên mà khởi. Không mặc định các pháp ở bất cứ khung nẹp nào về không gian và thời gian, pháp vốn là pháp nhĩ như thị, pháp vốn là Duyên khởi, nên tính Duyên khởi là tính thường trú của tất cả pháp. 

Không dừng lại ở đó, nguyên lý Duyên khởi còn có tính cách quyết định sự hiện hữu và không hiện hữu của tất cả pháp. Nếu đủ duyên thì các pháp sinh khởi; không đủ duyên thì các pháp tán loạn. Song, đặc tính Duyên khởi mà chúng ta dễ nhận biết nhất là pháp có tính y tha hay y duyên, tức là sự nương tựa, hỗ tươngtác động qua lại lẫn nhau để sinh thành và hoại diệt. Chính đặc tính này đã khẳng định bản chất các pháp không bao giờ có sự tồn tại độc lập, riêng lẻ. Như khi ái, thủ, hay vô minh tồn tại thì toàn bộ khổ uẩn tập khởiCon đường tập khởi này là sinh tử, gọi là tà đạo. Khi tham áichấp thủ, hay vô minh đoạn diệttoàn bộ khổ uẩn đoạn diệtCon đường đoạn diệt này là chánh đạo

Mặt khác, Duyên khởi trong thực tại là một hiện tượng trùng trùng. Một pháp tập khởi chính là pháp giới tập khởi. Đây là ý nghĩa của một là tất cả, tất cả là một. Nội hàm của nguyên lý ấy đồng nghĩa với duyên sinh và vô ngã, nó thoát ly mọi tướng trạng, mọi tư duyngôn ngữ. Qua đó cho thấy, tất cả pháp là Duyên khởi nên không có tự tínhbất định tính. Vì không có tự tính cho nên vô ngã, như vậy càng không có thần ngã nào gọi là bất biến và vĩnh cửu và càng không có một đấng sáng tạo nào có thể cứu rỗi, áp đặt hoặc ban bố cho con người những đặc ân nằm ngoài vòng vận hành của nghiệp cảm Duyên khởi

Dưới ánh sáng của chân lý này, mọi người có thể tu tập, có thể cải tạo, chuyển đổi từ ngu đến trí, từ khổ đến vui, từ phàm tục đến thánh thiệnTóm lại, trong tất cả mọi tướng trạng, không một ngã tướng nào độc lập sinh hay độc lập diệt. Và cũng chính lý do này mà ta không thể xây dựng các chủ thuyết dựa trên căn bản ngã tínhDuyên khởi nói lên sự thật vô ngã và phủ nhận tự ngã. Vì vô ngã tính mà các tính được thành lậpChính giáo lý vô ngã này là nấc thang xua tan đi mọi chấp trước về sự sinh diệt thường, vô thường, có-không, khứ-lai… của các pháp. Do đó, khi được đặt mình trong khuôn khổ của nhân sinh quan vũ trụ, bằng sự soi rọi của thực tế duyên sinh thì không có một câu trả lời hay câu hỏi nào thích đáng về nguyên nhân đầu tiên với bản chất của các pháp. Ta đều xem xét sự vật, hiện tượng trong mối tương quan với các khách thể khác. 

Kết luận

Duyên khởi là giáo lý được chư Phật trong quá khứ, hay Đức Thích Ca trong hiện tại cho đến chư Phật vị lai sau đều do quan sátchiêm nghiệm về lý Duyên khởi mà thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Mặc cho lịch sử đã qua, hiện tại đang là, hay tương lai sắp đến, chân lý ấy vẫn thường trụbất biến giữa thế gian. Ở đó, các pháp hữu vivô vitâm lý hay vật lý, đạo hay đời… tất cả đều vận hành không ngoài đạo lý Duyên khởi. Nói cách khác, tất cả giáo lý Phật giáo dù trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng chung quy cũng chỉ để mô tả về chân lý Duyên khởiÝ nghĩa đó cho thấy Duyên khởi là kết tinh của suối nguồn giáo lý đạo PhậtThấu triệt Duyên khởi là thấu triệt được quá trình sinh diệt của các pháp. 

Thông qua đó, ta thấy rõ tính chất thường trú, quyết địnhy tha nơi vạn vật chính là như thật tánh, như thị tánh, chơn thật tánh, bất hư vọng tánh. Hành giả tu học theo giáo lý này sẽ sớm nhận chân được sự vô thường biến dị của các pháp, sớm vượt ra khỏi những quan kiến sai lầm chia cắt thực tại bằng những suy tư, đánh giá hời hợt rằng các pháp tồn tại độc lậpĐồng thời cho thấy con người có thể cải tạo thân tâm họ: 

“Bần tiện không vì sanh
Phạm Chí không vì sanh
Do hành thành bần tiện
Do hành thành phạm chí”.

 

Chú thích:

[1], [2], [3], [4], Đại tạng Kinh Việt Nam Nam truyền, Tập 2, Kinh Trung bộ (2012), Nxb. Tôn giáo, tr.325-326.

[5] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2017), Trung Bộ II, Kinh Đa Giới.

[6] HT. Tuệ Sỹ (dịch), Kinh Trường A HàmKinh Đại duyên phương tiện,  https://thuvienhoasen.org/a11200/13-kinh-dai-duyen-phuong-tien.

[7] Thích Chơn Thiện (2016), Phật học khái luận, Nxb. Hồng Đức, tr.174.

 

Tài liệu tham khảo:

1. HT. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Trung Bộ II, Nxb. Tôn giáo, TP HCM.

2. HT. Thích Minh Châu(dịch, 2017), Tương Ưng Bộ II, Nxb. Tôn giáo, TP HCM.

3. HT.Thích Minh Châu (dịch, 2018), Tiểu Bộ I, Nxb. Tôn giáo, TP HCM.

4. https://thuvienhoasen.org/a11200/13-kinh-dai-duyen-phuong-tien

5. Tâm Minh Lê Đình Thám (2012), Phật học thường thức, Nxb. Hồng Đức.

6. Thích Chơn Thiện (2016), Phật học khái luận, Nxb. Hồng Đức. 

7. Ban Hoằng pháp TW (2003), Phật học cơ bản (tập 2), Nxb. Tôn giáo.
(Trích từ Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 399)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12646)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12261)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11037)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10916)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11791)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13671)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11912)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11177)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12205)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12411)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20604)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12433)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12463)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11721)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11601)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22433)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13584)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29689)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11548)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16751)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12005)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16850)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12082)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17932)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12652)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13176)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14771)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22634)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10593)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14053)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13875)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13721)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13872)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13947)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14839)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13857)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18421)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22808)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15400)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17329)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22418)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14268)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12589)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11173)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17776)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13217)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18802)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17184)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13510)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12924)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14703)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14662)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15881)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13519)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27442)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13244)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16733)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21399)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant