Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

19 Tháng Mười Một 202205:35(Xem: 1600)
Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Nguyễn Thế Đăng

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

 

1/ Thế giới là môi trường thực hành hạnh Bồ tát

Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong chuyện tiền thân thứ nhất Chuyện Pháp Tối thượng (Kinh Tiểu Bộ III) như sau:

Này gia chủ: Chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn mười hạnh Ba la mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí. Hãy cẩn thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng”.

Sau khi kể câu chuyện tiền kiếp, “Ngài nhận diện tiền thân như sau:

Trong thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Đề Bà Đạt Đatùy tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Đề Bà Đạt Đa. Còn người chủ đoàn lữ hành hiền trí là Ta, và tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy tùng của đức Phật bây giờ vậy”.

Đối với một người sống với ý nguyện hoàn thiện cho mình và cho người khác thì mỗi cuộc đời, dầu thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều là những cơ hội để học tập và tiến bộ trên con đường đến sự hoàn thiện rốt ráo ấy.

“Loại bỏ các nghi nan” cho mình, đó là tu tập trí huệ. “Loại bỏ các nghi nan cho người khác (ở đời)”, đó là tâm từ bi. Trí huệ phối hợp với từ bi là con đường Bồ tát. Mười Ba la mật là Bố thíGiữ giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Trí huệPhương tiện, Nguyện, Lực, và Trí. Mười Ba la mật là trí huệ và từ bi để “tự giác, giác tha”, và khi nào đầy đủ, trọn vẹn thì thành Phật, “giác hạnh viên mãn”.

Trong tất cả các câu chuyện tiền thân dù khi làm người cao sang như làm vua, Đế Thíchcho đến người lái buôn, người cày ruộng…, thậm chí làm thú vật như nai, voi, khỉ, sư tử… bao giờ cũng cho thấy Bồ tát là người “khôn ngoan”, nhiều “phước đức” (vì thường làm vua loài ấy), và luôn luôn giúp đỡ, cứu giúp, bảo vệ loài chung quanh bằng sự khôn ngoan và phước đức của mình. Đó là trí huệ (khôn ngoan) và từ bi (cứu giúp), tự giác và giác tha, hai yếu tố song hành trên đường Bồ tát.

Thế giới này là môi trường để thực hành hạnh (hạnh: hành động) Bồ tát trải qua nhiều đời.

Chẳng hạn như chuyện số 37, Chuyện Con Chim Trĩ, bậc Đạo sư nhận diện tiền thân như sau:

Thời ấy, con voi là Mục Kiền Liên, con khỉ là Xá Lợi Phất và con chim trĩ là Ta vậy”.

Những nhân duyên thầy trò và các mối liên hệ khác, dù ở trong các loài vật, cũng đã có sự nối kết từ rất xa xưa. Bồ tát là người mở rộng sự nối kết, từ những liên hệ nhỏ, đến nối kết với vũ trụ và chúng sanh bằng trí huệ và từ bi.

2/ Thực hành trí huệtừ bi và công đức

Trí huệ:

Trí huệ là trí huệ thấu suốt tánh Không, do đó giải thoát. Theo Kinh Kim Cương Năng Đoạn (Trí huệ như kim cương cắt đứt tất cả), trí huệ tánh Không là thấu đạt “không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả”.

Thực tại thì không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng. Không bị bốn tướng đó ngăn che, chia cắt, phân mảnh nên thực tại vốn là tự do giải thoátThực tại là tánh Không.

Nhưng người ta không chỉ đạt đến thực tại bằng cách ngồi thiền bất động, mà còn bằng cách hoạt động trong thế gian (hậu thiền định), trực tiếp chạm mặt và hành động trong sắc thanh hương vị xúc pháp để thấy bản tánh của chúng là tánh Không (Bát Nhã Tâm Kinh). Kinh Kim Cương Năng Đoạn nói người ta thấy biết và chứng ngộ tánh Không khi thực hành các ba la mật trong thế gian. Chẳng hạn như thực hành bố thí ở giữa đời:

Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp mà bố thí.

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường”.

“Không trụ nơi tướng”, đây là trí huệ tánh Không. “Bố thí”, là hành động của Từ bi. “Phước đức chẳng thể lường”, đó là Công đức. Trong chỉ một hành động bố thí, có đủ ba yếu tố chính yếu của một Bồ tát là Trí huệTừ Bi, và Công đức. Cho nên chính trong hành động ở thế gian mà Bồ tát thực hành Trí huệTừ Bi và Công đức nhập thành một.

Từ bi:

Trong Kinh Đại Bát Nhã, chủ yếu nói về tánh Không, khi nói đến Đức Phật, bao giờ cũng nhắc “bốn vô sở uýbốn vô ngại giải, mười lực, mười tám pháp bất cộngđại từ đại bi”. Từ bi là không thể thiếu ở một vị Phật.

Để biết Bồ tát tiến bộ đồng thời trí huệ và từ bi như thế nào, chúng ta hãy xem vị thánh Bồ tát ở Sơ Hoan Hỷ địa, tức là địa đầu tiên của Mười Địa Pháp thân, trích từ Phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm.

Chư Phật tử! Bồ tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm đầu, trí huệ tăng thượngphương tiện thiện xảoPhật lực là chỗ giữ gìn, sức trí huệ vô ngại hiện tiền…

Phật tử! Bồ tát ban đầu phát tâm như vậy, liền vượt khỏi địa vị phàm phu, nhập vào hàng Bồ tát, sinh vào nhà Như Lai, không ai có thể nói chủng tộc của ngài lỗi lầm, lìa khỏi thế gian, nhập vào đạo xuất thế, được pháp Bồ tát, trụ chỗ của Bồ tát, vào ba đời bình đẳng, ở trong chủng tánh Như Laiquyết định đắc vô thượng giác ngộBồ tát trụ pháp như vậy gọi là trụ Bồ tát Hoan Hỷ địa, vì đã tương ưng với bất động”.

Gọi là địa Hoan hỷ vì Bồ tát đã sanh vào nhà Như Lai tức là vào Pháp thân, ở trong chủng tánh Như Lai là đã ở trong Phật tánhtương ưng với Pháp thân bất độngPháp thân là nền tảng, là con đường để tiến lên giác ngộ vô thượngHoan hỷ vì:

Vì tôi đã chuyển và lìa tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì gần bậc trí huệ mà hoan hỷ, vì dứt tất cả đường xấu ác mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát nên hoan hỷ”.

Tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát là Pháp thân tánh Không của tất cả chư Phật và chư Bồ tát, tánh bình đẳng ấy cũng gồm từ bi, nguyện, hạnh (hạnh: hành động) cứu độ chúng sanh.

Để tiến lên những địa trên, Bồ tát Hoan Hỷ địa có hai động lực lớn nhất là trí tuệ và từ bi:

Xa lìa cái thấy có tôi, không có tưởng về cái tôi, cho nên không sợ chết… Bồ tát này lấy đại bi làm đầu, chí nguyện rộng lớn không có gì ngăn ngại phá hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu”.

Đại bi thì phát sanh đại nguyện: nguyện đối với Phật pháp:

Lại phát đại nguyện: Nguyện lãnh thọ tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả các Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Và nguyện đối với chúng sanh:

Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả cõi chúng sanh: có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, trứng sanh, thai sanhẩm thấp sanh, hóa sanh, thuộc về ba cõi nhiếp vào danh sắc, trong sáu loài tất cả chỗ thác sanh, các loài như vậy tôi đều giáo hóa vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Với những lời nguyện như trên, Bồ tát dấn thân vào hành động (hạnh)và như vậy tâm Bồ tát dần dần mở rộng, bao trùm thế giới và chúng sanh. Đây là điều trong các kinh thường nói, “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các lời nguyện này khiến chúng ta nhớ đến những chuyện tiền thân của Phật khi còn làm Bồ tát đã ở trong các loài thế gian mà thực hành mười Ba la mật, tức là trí huệ và từ bi hợp nhất.

“Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ”: hành động trí huệ và từ bi của Bồ tát trải khắp không gian và thời gian, không dừng dứt.

Trí huệ là soi thấu bản chất của sanh tử và chúng sanh, và từ bi là ôm trùm tất cả sanh tử và chúng sanh. Thế nên nếu không có sanh tử và chúng sanh thì cũng không có con đường Bồ tát.

Công đức:

Công đức là do hành động với trí huệ và từ bi tạo thành. Trí huệ phát sanh từ bi và đưa đến hành động bố thí, tức là công đức. Đoạn kinh sau đây cho chúng ta thấy điều này:

Bồ tát Hoan Hỷ địa lại nghĩ rằng: Chánh pháp của chư Phật rất sâu như vậy, tịch tịnh như vậy, tịch diệt như vậy, Không, Vô tướngVô nguyện như vậy, mà hàng phàm phu sa vào tà kiến, bị vô minh che mờ, vào trong đủ thứ phiền não của mười hai duyên sanh… chúng sanh thêm lớn quả khổ, ở trong đây vốn là Không, lìa cái ta và cái của ta, không biết, không giác, không làm, không thọ, như cỏ cây, đá vách, cũng như hình bóng.

Bồ tát thấy chúng sanh tích tập khổ quả như vậy, không thể thoát khỏi, nên phát sanh đại bi trí huệ. Tự nghĩ rằng: tôi phải cứu với tất cả chúng sanh này đặt họ nơi chỗ rốt ráo an vui.  Do suy nghĩ như vậy bèn sanh trí huệ quang minh đại từ.

Chư Phật tử! Đại Bồ tát tùy thuận đại từ đại bi như vậy, dùng tâm sâu nặng trụ Sơ Hoan Hỷ Địa, với tất cả mọi vật không xẻn tiếc, cầu đại trí huệ Phật, tu hạnh đại xả. Phàm những gì mình có, tất cả đều bố thí được…

“Trí huệ quang minh đại từ”, từ bi qua hành động là một thực thể, là ánh sáng (quang minh), và ánh sáng từ bi ấy hợp nhất với trí huệ tánh Không.

3/ Thế gian là nơi học tập và thi thố hạnh Bồ tát

Thế gian là nơi nguy hiểm, khó khăn, đầy dẫy thách thức và cơ hội cho mọi người thực hành hạnh Bồ tát, vì chính nơi ấy mà người ấy chuyển hóa được cái thấy bất tịnh của mình thành cái thấy thanh tịnh, những phiền não trùng điệp của mình thành ánh sáng giác ngộ.

Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Phật đạo nói:

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Duy Ma Cật: Nếu thấy cái Vô vi (vô sanhtánh Không) mà nhập chánh vị thì không còn có thể phát tâm Bồ đề vô thượng được nữa. Tuy nhiên, người sống giữa những cái hữu vi hợp tạo vô thường, trong những quặng mỏ phiền não, dầu chưa được thấy chân lý, cũng có thể phát tâm Bồ đề.

Ví như chỗ đất cao không thể sanh hoa sen, nơi bùn lầy thấp ướt mới sanh hoa ấy. Như vậy, thấy pháp vô vi rồi nhập chánh vị rốt cuộc chẳng còn sanh những phẩm tính Phật. Trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh khởi lên những phẩm tính Phật. Lại như gieo hạt giống giữa không trung rốt cuộc chẳng sanh được, ở đất phân bùn thì mới tốt tươi.

Như vậy, người vào vô vi chánh vị thì không sanh ra những phẩm tính Phật. Nhưng dù người sanh khởi ngã kiến như núi Tu Di thì vẫn còn có thể phát tâm Bồ đề mà sanh ra những phẩm tính Phật. Thế nên phải biết: Hết thảy phiền não là hạt giống Như LaiVí như không lặn xuống biển cả thì không thể được ngọc quý vô giá, cũng vậy, không vào biển cả phiền não thì không thể được Nhất Thiết Trí quý báu”.

Chính nhờ thực hành hạnh Bồ tát, tức là nguyện hạnh Bồ đề tâm mà Bồ tát có được không chỉ Pháp thân mà còn có Báo thân và Hóa thân để làm việc trong ba cõi thế gian. Và khi thành Phật thì ba thân này được khai mở, phát huy trọn vẹn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12292)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11983)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12867)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26753)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13121)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27139)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32972)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31783)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32657)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13082)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12222)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17601)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18823)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12635)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11825)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13184)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12307)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12555)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11715)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12056)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10685)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10985)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28435)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11241)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11449)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13660)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11113)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11513)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10983)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11257)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26456)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12465)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14963)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11142)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20454)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12451)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11558)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10851)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 24035)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11938)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12394)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12919)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11130)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38820)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10624)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12302)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17814)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25191)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10623)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10845)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12129)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11424)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11676)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14807)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21528)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9989)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11336)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27504)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11252)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11918)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant