Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

19 Tháng Mười Một 202205:35(Xem: 1570)
Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Nguyễn Thế Đăng

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

 

1/ Thế giới là môi trường thực hành hạnh Bồ tát

Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong chuyện tiền thân thứ nhất Chuyện Pháp Tối thượng (Kinh Tiểu Bộ III) như sau:

Này gia chủ: Chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn mười hạnh Ba la mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí. Hãy cẩn thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng”.

Sau khi kể câu chuyện tiền kiếp, “Ngài nhận diện tiền thân như sau:

Trong thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Đề Bà Đạt Đatùy tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Đề Bà Đạt Đa. Còn người chủ đoàn lữ hành hiền trí là Ta, và tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy tùng của đức Phật bây giờ vậy”.

Đối với một người sống với ý nguyện hoàn thiện cho mình và cho người khác thì mỗi cuộc đời, dầu thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều là những cơ hội để học tập và tiến bộ trên con đường đến sự hoàn thiện rốt ráo ấy.

“Loại bỏ các nghi nan” cho mình, đó là tu tập trí huệ. “Loại bỏ các nghi nan cho người khác (ở đời)”, đó là tâm từ bi. Trí huệ phối hợp với từ bi là con đường Bồ tát. Mười Ba la mật là Bố thíGiữ giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Trí huệPhương tiện, Nguyện, Lực, và Trí. Mười Ba la mật là trí huệ và từ bi để “tự giác, giác tha”, và khi nào đầy đủ, trọn vẹn thì thành Phật, “giác hạnh viên mãn”.

Trong tất cả các câu chuyện tiền thân dù khi làm người cao sang như làm vua, Đế Thíchcho đến người lái buôn, người cày ruộng…, thậm chí làm thú vật như nai, voi, khỉ, sư tử… bao giờ cũng cho thấy Bồ tát là người “khôn ngoan”, nhiều “phước đức” (vì thường làm vua loài ấy), và luôn luôn giúp đỡ, cứu giúp, bảo vệ loài chung quanh bằng sự khôn ngoan và phước đức của mình. Đó là trí huệ (khôn ngoan) và từ bi (cứu giúp), tự giác và giác tha, hai yếu tố song hành trên đường Bồ tát.

Thế giới này là môi trường để thực hành hạnh (hạnh: hành động) Bồ tát trải qua nhiều đời.

Chẳng hạn như chuyện số 37, Chuyện Con Chim Trĩ, bậc Đạo sư nhận diện tiền thân như sau:

Thời ấy, con voi là Mục Kiền Liên, con khỉ là Xá Lợi Phất và con chim trĩ là Ta vậy”.

Những nhân duyên thầy trò và các mối liên hệ khác, dù ở trong các loài vật, cũng đã có sự nối kết từ rất xa xưa. Bồ tát là người mở rộng sự nối kết, từ những liên hệ nhỏ, đến nối kết với vũ trụ và chúng sanh bằng trí huệ và từ bi.

2/ Thực hành trí huệtừ bi và công đức

Trí huệ:

Trí huệ là trí huệ thấu suốt tánh Không, do đó giải thoát. Theo Kinh Kim Cương Năng Đoạn (Trí huệ như kim cương cắt đứt tất cả), trí huệ tánh Không là thấu đạt “không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả”.

Thực tại thì không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng. Không bị bốn tướng đó ngăn che, chia cắt, phân mảnh nên thực tại vốn là tự do giải thoátThực tại là tánh Không.

Nhưng người ta không chỉ đạt đến thực tại bằng cách ngồi thiền bất động, mà còn bằng cách hoạt động trong thế gian (hậu thiền định), trực tiếp chạm mặt và hành động trong sắc thanh hương vị xúc pháp để thấy bản tánh của chúng là tánh Không (Bát Nhã Tâm Kinh). Kinh Kim Cương Năng Đoạn nói người ta thấy biết và chứng ngộ tánh Không khi thực hành các ba la mật trong thế gian. Chẳng hạn như thực hành bố thí ở giữa đời:

Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp mà bố thí.

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường”.

“Không trụ nơi tướng”, đây là trí huệ tánh Không. “Bố thí”, là hành động của Từ bi. “Phước đức chẳng thể lường”, đó là Công đức. Trong chỉ một hành động bố thí, có đủ ba yếu tố chính yếu của một Bồ tát là Trí huệTừ Bi, và Công đức. Cho nên chính trong hành động ở thế gian mà Bồ tát thực hành Trí huệTừ Bi và Công đức nhập thành một.

Từ bi:

Trong Kinh Đại Bát Nhã, chủ yếu nói về tánh Không, khi nói đến Đức Phật, bao giờ cũng nhắc “bốn vô sở uýbốn vô ngại giải, mười lực, mười tám pháp bất cộngđại từ đại bi”. Từ bi là không thể thiếu ở một vị Phật.

Để biết Bồ tát tiến bộ đồng thời trí huệ và từ bi như thế nào, chúng ta hãy xem vị thánh Bồ tát ở Sơ Hoan Hỷ địa, tức là địa đầu tiên của Mười Địa Pháp thân, trích từ Phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm.

Chư Phật tử! Bồ tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm đầu, trí huệ tăng thượngphương tiện thiện xảoPhật lực là chỗ giữ gìn, sức trí huệ vô ngại hiện tiền…

Phật tử! Bồ tát ban đầu phát tâm như vậy, liền vượt khỏi địa vị phàm phu, nhập vào hàng Bồ tát, sinh vào nhà Như Lai, không ai có thể nói chủng tộc của ngài lỗi lầm, lìa khỏi thế gian, nhập vào đạo xuất thế, được pháp Bồ tát, trụ chỗ của Bồ tát, vào ba đời bình đẳng, ở trong chủng tánh Như Laiquyết định đắc vô thượng giác ngộBồ tát trụ pháp như vậy gọi là trụ Bồ tát Hoan Hỷ địa, vì đã tương ưng với bất động”.

Gọi là địa Hoan hỷ vì Bồ tát đã sanh vào nhà Như Lai tức là vào Pháp thân, ở trong chủng tánh Như Lai là đã ở trong Phật tánhtương ưng với Pháp thân bất độngPháp thân là nền tảng, là con đường để tiến lên giác ngộ vô thượngHoan hỷ vì:

Vì tôi đã chuyển và lìa tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì gần bậc trí huệ mà hoan hỷ, vì dứt tất cả đường xấu ác mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát nên hoan hỷ”.

Tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát là Pháp thân tánh Không của tất cả chư Phật và chư Bồ tát, tánh bình đẳng ấy cũng gồm từ bi, nguyện, hạnh (hạnh: hành động) cứu độ chúng sanh.

Để tiến lên những địa trên, Bồ tát Hoan Hỷ địa có hai động lực lớn nhất là trí tuệ và từ bi:

Xa lìa cái thấy có tôi, không có tưởng về cái tôi, cho nên không sợ chết… Bồ tát này lấy đại bi làm đầu, chí nguyện rộng lớn không có gì ngăn ngại phá hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu”.

Đại bi thì phát sanh đại nguyện: nguyện đối với Phật pháp:

Lại phát đại nguyện: Nguyện lãnh thọ tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả các Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Và nguyện đối với chúng sanh:

Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả cõi chúng sanh: có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, trứng sanh, thai sanhẩm thấp sanh, hóa sanh, thuộc về ba cõi nhiếp vào danh sắc, trong sáu loài tất cả chỗ thác sanh, các loài như vậy tôi đều giáo hóa vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Với những lời nguyện như trên, Bồ tát dấn thân vào hành động (hạnh)và như vậy tâm Bồ tát dần dần mở rộng, bao trùm thế giới và chúng sanh. Đây là điều trong các kinh thường nói, “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các lời nguyện này khiến chúng ta nhớ đến những chuyện tiền thân của Phật khi còn làm Bồ tát đã ở trong các loài thế gian mà thực hành mười Ba la mật, tức là trí huệ và từ bi hợp nhất.

“Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ”: hành động trí huệ và từ bi của Bồ tát trải khắp không gian và thời gian, không dừng dứt.

Trí huệ là soi thấu bản chất của sanh tử và chúng sanh, và từ bi là ôm trùm tất cả sanh tử và chúng sanh. Thế nên nếu không có sanh tử và chúng sanh thì cũng không có con đường Bồ tát.

Công đức:

Công đức là do hành động với trí huệ và từ bi tạo thành. Trí huệ phát sanh từ bi và đưa đến hành động bố thí, tức là công đức. Đoạn kinh sau đây cho chúng ta thấy điều này:

Bồ tát Hoan Hỷ địa lại nghĩ rằng: Chánh pháp của chư Phật rất sâu như vậy, tịch tịnh như vậy, tịch diệt như vậy, Không, Vô tướngVô nguyện như vậy, mà hàng phàm phu sa vào tà kiến, bị vô minh che mờ, vào trong đủ thứ phiền não của mười hai duyên sanh… chúng sanh thêm lớn quả khổ, ở trong đây vốn là Không, lìa cái ta và cái của ta, không biết, không giác, không làm, không thọ, như cỏ cây, đá vách, cũng như hình bóng.

Bồ tát thấy chúng sanh tích tập khổ quả như vậy, không thể thoát khỏi, nên phát sanh đại bi trí huệ. Tự nghĩ rằng: tôi phải cứu với tất cả chúng sanh này đặt họ nơi chỗ rốt ráo an vui.  Do suy nghĩ như vậy bèn sanh trí huệ quang minh đại từ.

Chư Phật tử! Đại Bồ tát tùy thuận đại từ đại bi như vậy, dùng tâm sâu nặng trụ Sơ Hoan Hỷ Địa, với tất cả mọi vật không xẻn tiếc, cầu đại trí huệ Phật, tu hạnh đại xả. Phàm những gì mình có, tất cả đều bố thí được…

“Trí huệ quang minh đại từ”, từ bi qua hành động là một thực thể, là ánh sáng (quang minh), và ánh sáng từ bi ấy hợp nhất với trí huệ tánh Không.

3/ Thế gian là nơi học tập và thi thố hạnh Bồ tát

Thế gian là nơi nguy hiểm, khó khăn, đầy dẫy thách thức và cơ hội cho mọi người thực hành hạnh Bồ tát, vì chính nơi ấy mà người ấy chuyển hóa được cái thấy bất tịnh của mình thành cái thấy thanh tịnh, những phiền não trùng điệp của mình thành ánh sáng giác ngộ.

Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Phật đạo nói:

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Duy Ma Cật: Nếu thấy cái Vô vi (vô sanhtánh Không) mà nhập chánh vị thì không còn có thể phát tâm Bồ đề vô thượng được nữa. Tuy nhiên, người sống giữa những cái hữu vi hợp tạo vô thường, trong những quặng mỏ phiền não, dầu chưa được thấy chân lý, cũng có thể phát tâm Bồ đề.

Ví như chỗ đất cao không thể sanh hoa sen, nơi bùn lầy thấp ướt mới sanh hoa ấy. Như vậy, thấy pháp vô vi rồi nhập chánh vị rốt cuộc chẳng còn sanh những phẩm tính Phật. Trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh khởi lên những phẩm tính Phật. Lại như gieo hạt giống giữa không trung rốt cuộc chẳng sanh được, ở đất phân bùn thì mới tốt tươi.

Như vậy, người vào vô vi chánh vị thì không sanh ra những phẩm tính Phật. Nhưng dù người sanh khởi ngã kiến như núi Tu Di thì vẫn còn có thể phát tâm Bồ đề mà sanh ra những phẩm tính Phật. Thế nên phải biết: Hết thảy phiền não là hạt giống Như LaiVí như không lặn xuống biển cả thì không thể được ngọc quý vô giá, cũng vậy, không vào biển cả phiền não thì không thể được Nhất Thiết Trí quý báu”.

Chính nhờ thực hành hạnh Bồ tát, tức là nguyện hạnh Bồ đề tâm mà Bồ tát có được không chỉ Pháp thân mà còn có Báo thân và Hóa thân để làm việc trong ba cõi thế gian. Và khi thành Phật thì ba thân này được khai mở, phát huy trọn vẹn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34644)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32235)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30449)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30718)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21042)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20218)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19479)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24427)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30741)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15712)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27833)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19794)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15593)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23283)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23605)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17555)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15734)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21941)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38061)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22223)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23296)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28453)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32601)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25231)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34727)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22998)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27751)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31341)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13629)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25247)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27886)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22140)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20765)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22232)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27199)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24182)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21960)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14751)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23208)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24059)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21173)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14226)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19976)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22561)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14099)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28082)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22894)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28244)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11033)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28542)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31618)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26231)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15005)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28060)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7484)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25412)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20726)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21159)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12277)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant