Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những vị tông sư luật học thời cận đại

30 Tháng Tư 202313:51(Xem: 1106)
Những vị tông sư luật học thời cận đại
Những vị tông sư luật học thời cận đại

Huy-nhat-On-Gia-Lam


KHAI TỪ

Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.

Năm 2017, thầy Tuệ Sỹ gợi ý cho tôi viết lịch sử dấu vết tông Luật của Phật giáo, được truyền thừa tại Việt Nam từ xa xưa đến cận đại, tôi bắt tay viết vào rằm tháng 7 năm ấy, cho đến nay vẫn còn dang dở. Ở Việt Nam hiện nay, các giới đàn tổ chức cho Tăng ni thọ giới, giới pháp họ thọ lãnh thuộc tông luật Pháp tạng bộ, y cứ trên hệ luật Tứ phần. Tuy nhiên, nhiều Tăng ni thọ giới xong không biết mình thuộc tông nào, bởi vì lịch sử truyền thừa ít có người nhắc tới hay chưa được viết thành thư tịch rõ ràng… Khi tôi viết, tôi lần dấu vết truyền thừa của tông Pháp tạng bộ, tác phẩm chỉ mới đi nửa chặng đường. Tâm nguyện của tôi rất muốn sớm được hoàn thành, và viết đến thời cận đại, để ghi danh các vị tông sư có công hoằng truyền Luật tạnghậu thế ít biết hoặc không biết nhiều. Thời gian đã 7 năm, công tẩn mẩn vẫn chưa có dấu chấm kết. Song vừa rồi, tôi nghiên cứu tông Hóa địa bộ hệ luật Ngũ phần, xem có truyền thừa tại Việt Nam hay không, sẵn tiện tôi khởi niệm kết hợp tóm tắt ý chính sự truyền thừa cả hệ luật Tứ phần và Ngũ phần, kể luôn các vị tông sư hoằng truyền tông Luật thời cận đại, cho độc giả tri tường.

DẤU VẾT TRUYỀN THỪA TẠI VIỆT NAM

Tuệ Kiểu (497-554) nhận định trong Cao tăng truyện: Từ khi Phật giáo truyền về Đông (Trung Quốc) đầy đủ năm bộ luật, là Thập tụngTứ phầnMa-ha-tăng-kỳNgũ phần, và luật bản Phạn của Ca-diếp bộ (chưa được dịch)… tuy các bộ đều được truyền dịch nhưng chỉ có luật Thập tụng là thịnh nhất ở Đông quốc[1].

Luật Thập tụng được La-thập (Kumārajīva) cùng Phất-nhã-đa-la (Puṇyatāra) dịch lần thứ nhất vào năm Hoằng thủy (404), đời Đông Tấn. Năm Hoằng thủy thứ 8 (406), La-thập cùng Ti-ma-la-xoa (Vimalākṣa) dịch tiếp, hoàn thiện thành 61 quyển[2]. Luật Thập tụng của Hữu bộ hoằng dương tại Trung Quốc trước luật Ngũ phần 17 năm. Luật Ngũ phần có mặt từ năm 423. Đến triều Lương năm 552, sa-môn Thích Minh Huy (釋明徽) biên tập Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bản (五分比丘尼戒本) tại chùa Kiến Sơ; rồi đến năm 700 thời Đường, Thích Ái Đồng (釋愛同) biên soạn Di-sa-tắc yết-ma bản (彌沙塞羯磨本) ở chùa Khai Nghiệp[3]. Chúng ta thấy, mặc dầu luật Thập tụng của Hữu bộ thời ấy phát triển như lời Tuệ Kiểu nói nhưng bên cạnh vẫn có “hậu duệ” của Hóa địa bộ kế thừa hoằng truyền luật Ngũ phần với thời gian khá dài.

Lý do vì sao dòng truyền thừa luật Tạng của Hữu bộ cũng như Hóa địa bộ về sau bị tiêu trầm? Bởi khi luật Tứ phần của Pháp tạng bộ được Phật-đà-da-xá (Buddhayaśas) và Trúc Phật Niệm dịch vào năm Hoằng thủy thứ 12 (410), đến thời Nguyên ngụy Hiếu văn đế (471-499), đại sư Pháp Thông xiển dương luật Tứ phần, từ đây tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) khuếch trương mạnh dần, đến đầu đời Đường, khi Đạo Tuyên (596-667) xiển dương luật Tứ phần, biên soạn Tứ phần luật tỳ-kheo hàm chú giới bản (四分律比丘含注戒本), Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao (四分律刪繁補闕行事鈔) v.v… bắt đầu áp đảo các bộ luật khác, luật Thập tụng không được nhiều người trọng thị nữa, dần dà tuyệt tích. Có lẽ luật Ngũ phần cũng chung số phận[4].

Không biết thời kỳ bộ phái Hóa địa hưng phát tại đất Trung Hoa có truyền đến Việt Nam hay không, hoặc họ có đến Việt Nam bằng con đường nào khác, hiện tại chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến? Nhưng thời kỳ luật Thập tụng hưng thịnh thì thấy có ảnh hưởng tại Việt Nam qua lịch sử cao tăng Đạo Thiền, ông là người Giao Chỉ, sống ở chùa núi Tiên Châu. Năm Vĩnh minh thứ nhất (483), đến Trung Quốc, ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn, dùng luật Thập tụng dạy Tăng ni[5]. Do đó chúng ta suy đoán trước đó và đến thời Đạo Thiền, luật của Hữu bộ đã được truyền trì tại Việt Nam. Còn sử liệu về tông luật Hóa địa bộ hoằng hóa tại Việt Nam thì trắng hoàn toàn.

Chúng tôi tóm tắt một lần nữa, dấu chân hoằng hóa của bộ phái này được tìm thấy ở phía Nam và Bắc Ấn-độ. Huyền Trang[6] và Nghĩa Tịnh[7] đều gặp họ ở Uḍḍiyāna và Đông Turkestan. Dựa vào tiểu sử dịch giả Buddhajīva (Phật-đà-thập) dịch, có thể biết Luật tạng (luật Ngũ phần) của họ thường lưu hành ở Kaśmīra[8]. Đại sư nổi tiếng học phái Du-già hành (Yogācāra) là Asaṅga (Vô Trước), quê quán ở Puruṣapura, ban đầu ngài là người của Hóa địa bộ[9]. Một tu viện của Hóa địa bộ (Mahīśāsaka) ở phía nam Takṣaśilā được nhắc đến trong bia ký[10]. Mặt khác, họ cũng được chứng thực sống ở Tích-lan (Ceylon)[11]. Họ có một tu viện tại Nāgārjunikoṇḍa (Long thọ sơn [龍樹山]) bên bờ sông Kṛṣṇā[12]. Sử liệu không nói họ đi xa hơn như vùng Giao Chỉ (Việt Nam) và nếu Hóa địa bộtruyền thừa tại Việt Nam hay không phải kể đến giới đàn. Có thể giới đàn đầu tiên là thời Khương Tăng Hội (sinh năm 200), sư thọ giới khoảng năm 220, trong lời tựa kinh An-ban thủ ý, Khương Tăng Hội có nhắc đến từ ‘ba Thầy’ (tam sư) là một bộ phận của thành ngữ giới đàn Phật giáo ‘tam sư thất chứng’, có nghĩa trong nghi thức truyền giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni tiêu chuẩn đòi hỏi phải có sự hiện diện của ba thầy: Hòa thượng, yết-ma và a-xà-lê, và bảy thầy làm chứng (hay gọi là thất chứng). Việc nhắc đến ‘ba thầy’ này, phải chăng ám chỉ đến việc thọ đại giới[13]. Mà từ thời Hội đến Đạo Thiền khả nghi là dòng truyền thừa của Hữu bộ.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng, Thời nhà Lý (Lý Công Uẩn, 974-1028), Canh tuất, niên hiệu Thuận thiên thứ 1 (1010), cấp độ điệp cho nhân dân làm sãi. Giáp dần, năm thứ 5 (1014), tháng 5, Hữu Nhai tăng thống là Thẩm Văn Uyển tâu xin lập giới trường ở chùa Vạn Tuế, cho tăng đồ thọ giới. Vua chuẩn y. Bính thìn, năm thứ 7 (1016), cấp độ điệp cho hơn một ngàn người ở Kinh sư làm tăng đạo. Kỷ mùi, năm thứ 10 (1019), xuống chiếu cấp độ điệp cho nhân dân trong nước làm tăng. Canh thân, năm thứ 11 (1020, nhằm đời Tống, Thiên hy năm thứ 4), mùa thu tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ xin được Tam tạng kinh, vua xuống chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang Quảng Châu để đón[14]. Chúng ta có thể suy đoán trong giai đoạn này, vấn đề cấp độ điệp (度牒, cấp chứng minh thư cho Tăng lữ xuất gia) là ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tại Trung Quốc cấp độ điệp có từ thời Bắc ngụy. Đến đời Đường, năm Khai nguyên 17 (729), nhà vua hạ chiếu bắt Tăng ni xuất gia phải có Tăng tịch. Và kể từ năm thứ 6 niên hiệu Thiên bảo (747), Tăng ni xuất gia sẽ do triều đình cấp độ điệp để làm bằng chứng miễn lao dịch[15]. Mà từ thời Đường, tông luật Tứ phần đã phát triển mạnh kéo dài đến đời Tống, đời Tống có hai vị luật sư nổi tiếng kế thừa tông luật Tứ phần là Doãn Kham (?-1061) và Nguyên Chiếu (1048-1116). Do đó, thời Lý tại Việt Nam mô phỏng “độ điệp” cấp cho Tăng ni và tổ chức giới đàn có khả năng là truyền giới theo hệ luật Tứ phần của Pháp tạng bộ.

Sau đó một giai đoạn dài 600 năm, có lẽ giới đàn không được tổ chức ở Đàng Ngoài, các vị thiền sư chỉ phát nguyện thọ giới Bồ-tát như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), 19 tuổi xuất gia với Thiền sư Chân Trụ Tuệ Nguyệt được đặt pháp danh Tuệ Đăng. Sau đến núi Côn Cương làng Phù Lãng, tham học với Thiền sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc, khi đắc pháp được đổi tên là Chân Nguyên. Năm tiếp theo, Chân Nguyên lập đàn Diệu pháp liên hoa, thỉnh Phật Thích-ca, Di-đà và Di-lặc chứng đàn, thiền sư đã đốt hai ngón tay để thọ giới Bồ-tát. Chính thiền sư Chân Nguyên khi soạn tác phẩm Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới bằng Hán văn, ông hoàn toàn im lặng không trình bày nghi thức thọ giới của tỳ-kheo (250 giới), chỉ kể tới giới đàn cho người tại gia thọ năm giới, giới đàn thọ 8 giới, 10 giới của sa-di và giới đàn thọ 58 giới của Bồ-tát. Thời kỳ này theo giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, Phật giáo mang sắc thái dân tộc, không phải đời sống kỷ luật như tổ chức Phật giáo Ấn-độ[16]. Song trong giai đoạn Phật giáo thế kỷ XVII này, ở Đàng Trong, thời Nguyễn Phúc Thái (1649-1691), Chúa Nguyễn thứ 5, có sư Thạch Liêm (1633-1704) người Trung Quốc, qua Việt Nam tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm và chùa Di-đà ở Hội An, cùng năm Ất Hợi, 1695[17]. Cả hai giới đàn này đều thỉnh Tăng Trung Quốc qua truyền, đây chắc chắn cũng là giới đàn theo hệ luật Tứ phần Pháp tạng bộ.

THỜI CẬN ĐẠI

Từ đó cho đến sau này, tại Việt Nam các giới đàn cũng như những vị tông sư truyền thừa đều thuộc tông Pháp tạng bộ. Thời cận đại, nếu kể đến thế hệ thứ nhất truyền thừa luật Tứ phầnHòa thượng Đôn Hậu (1905-1992), Hòa thượngbiên soạn Cách thức sám hối các tội, luật Tứ phần tỳ-kheo-niThế hệ thứ hai là Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909-1984), những tác phẩm Hòa thượng trước tác và chủ biên: Luật tỳ-kheo – Tứ phần hiệp chú (1991) 2 tập, Yết-ma yếu chỉNghi thức quy giớiNghi thức truyền giới và bố-tát… (thế hệ này kể thêm, ngoài Bắc có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành Trụ). Thế hệ thứ ba là Hòa thượng Thích Đỗng Minh (1927-2005), do công trạng của Hòa thượng hoằng truyền và biên dịch luật học nhiều nhất nên mọi người xưng tụng là Tuyên luật sư. Hòa thượng dịch luật Tứ phầnNgũ phần, Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, …; trước tác Nghi thức truyền giới, “Tỳ-ni, sa-si, oai nghi cảnh sách văn vần”… Thế hệ thứ tư là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-), ngài là người có công chấn hưng, truyền dạy luật học trước tình hình giềng mối Tăng-già rạn nứt trong xã hội đương thời. Ngài đã trùng biên, hiệu đính lại những bộ luật mà quý Hòa thượng dịch thuật trước đó như Tứ phần, Ngũ phần, Tứ phần hiệp chú, Yết-ma yếu chỉ… Và dịch thêm những phần Skandhaka (Kiền-độ) của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, như An cư sự, Xuất gia sự… Trước tác Du-già bồ-tát giới

Đến đây chúng ta có thể kết luận, Hòa thượng Trí Thủ có công hoằng truyền tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ thời cận đại, Hòa thượng Đỗng Minh là người đầu tiên truyền dịch luật Ngũ phần của Hóa địa bộ, xem như dấu chân truyền giáo của hai bộ phái này có mặt tại Việt Nam, những người đệ tử cũng như học trò tiếp nối biên tập truyền dạy thì sự kế thừa đó sẽ tiếp diễn đến mai sau. Ví như sự tiếp nối của Hòa thượng Tuệ Sỹ, rồi hậu bối sẽ có người tiếp theo.

Phật lịch 2566 – mùng 6 tháng Giêng, năm Quý mão.
Thích Tâm Nhãn cẩn chí.


[1] 高僧傳 11, T50n2059, p. 403b12.

[2] 高僧傳, p333a20, p333b26.

[3] 二十二种大藏经通检, 中华书局 1982, p. 417, 611.

[4] Cf. zh.wikipedia.org/zh-hans/律宗.

[5] 續高僧傳, T50n2060, p.607b0130. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 783.

[6] Tây Vực ký 3, T 2087, p. 882b18.

[7] Nam hải ký quy nội pháp truyện 1, T 2125, p. 206c1.

[8] Cao tăng truyện 3, T. 2059, p. 339a3; cf. P. Demiéville, A propos du concile de Vaiśālī, in T’oung Pao, XL, 1951, p. 293.

[9] Tây Vực ký 5, T51, No. 2087, p. 896b28.

[10] Epigraphia Indica, I, 1892, No. 29, pp. 238.

[11] Pháp Hiển ở Tích-lan tìm được bản luật của bộ phái này (Cao tăng Pháp Hiển truyện, T 51, No. 2085, p. 865c24).

[12] Cf. E. Frauwallner, ibid., p. 20-21.

[13] Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam I, p. 276; Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 310.

[14] Đại Việt sử ký toàn thư II, 2004, p. 257-269.

[15] 佛光大辭典, 慈怡法師主編, p. 3779.

[16] Cf. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng I, 2018, p. 14-55, & vi.wikipedia.org/wiki/Chân_Nguyên.

[17] vi.wikipedia.org/wiki/Thạch_Liêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5825)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7434)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6370)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5965)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4743)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5682)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5853)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6118)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6595)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5946)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7057)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6667)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4782)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4929)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7708)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9819)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7514)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5327)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6428)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5411)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5831)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6390)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5699)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6437)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7061)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6273)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10652)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6669)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6159)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6717)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6116)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6484)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5517)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8233)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5732)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7558)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6250)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9660)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4065)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6396)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4167)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4305)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4758)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5309)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5283)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5817)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6775)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5550)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4492)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5331)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4991)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4357)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6870)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4611)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8409)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7217)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8369)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7495)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7569)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6104)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant