Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những vị tông sư luật học thời cận đại

30 Tháng Tư 202313:51(Xem: 1108)
Những vị tông sư luật học thời cận đại
Những vị tông sư luật học thời cận đại

Huy-nhat-On-Gia-Lam


KHAI TỪ

Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.

Năm 2017, thầy Tuệ Sỹ gợi ý cho tôi viết lịch sử dấu vết tông Luật của Phật giáo, được truyền thừa tại Việt Nam từ xa xưa đến cận đại, tôi bắt tay viết vào rằm tháng 7 năm ấy, cho đến nay vẫn còn dang dở. Ở Việt Nam hiện nay, các giới đàn tổ chức cho Tăng ni thọ giới, giới pháp họ thọ lãnh thuộc tông luật Pháp tạng bộ, y cứ trên hệ luật Tứ phần. Tuy nhiên, nhiều Tăng ni thọ giới xong không biết mình thuộc tông nào, bởi vì lịch sử truyền thừa ít có người nhắc tới hay chưa được viết thành thư tịch rõ ràng… Khi tôi viết, tôi lần dấu vết truyền thừa của tông Pháp tạng bộ, tác phẩm chỉ mới đi nửa chặng đường. Tâm nguyện của tôi rất muốn sớm được hoàn thành, và viết đến thời cận đại, để ghi danh các vị tông sư có công hoằng truyền Luật tạnghậu thế ít biết hoặc không biết nhiều. Thời gian đã 7 năm, công tẩn mẩn vẫn chưa có dấu chấm kết. Song vừa rồi, tôi nghiên cứu tông Hóa địa bộ hệ luật Ngũ phần, xem có truyền thừa tại Việt Nam hay không, sẵn tiện tôi khởi niệm kết hợp tóm tắt ý chính sự truyền thừa cả hệ luật Tứ phần và Ngũ phần, kể luôn các vị tông sư hoằng truyền tông Luật thời cận đại, cho độc giả tri tường.

DẤU VẾT TRUYỀN THỪA TẠI VIỆT NAM

Tuệ Kiểu (497-554) nhận định trong Cao tăng truyện: Từ khi Phật giáo truyền về Đông (Trung Quốc) đầy đủ năm bộ luật, là Thập tụngTứ phầnMa-ha-tăng-kỳNgũ phần, và luật bản Phạn của Ca-diếp bộ (chưa được dịch)… tuy các bộ đều được truyền dịch nhưng chỉ có luật Thập tụng là thịnh nhất ở Đông quốc[1].

Luật Thập tụng được La-thập (Kumārajīva) cùng Phất-nhã-đa-la (Puṇyatāra) dịch lần thứ nhất vào năm Hoằng thủy (404), đời Đông Tấn. Năm Hoằng thủy thứ 8 (406), La-thập cùng Ti-ma-la-xoa (Vimalākṣa) dịch tiếp, hoàn thiện thành 61 quyển[2]. Luật Thập tụng của Hữu bộ hoằng dương tại Trung Quốc trước luật Ngũ phần 17 năm. Luật Ngũ phần có mặt từ năm 423. Đến triều Lương năm 552, sa-môn Thích Minh Huy (釋明徽) biên tập Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bản (五分比丘尼戒本) tại chùa Kiến Sơ; rồi đến năm 700 thời Đường, Thích Ái Đồng (釋愛同) biên soạn Di-sa-tắc yết-ma bản (彌沙塞羯磨本) ở chùa Khai Nghiệp[3]. Chúng ta thấy, mặc dầu luật Thập tụng của Hữu bộ thời ấy phát triển như lời Tuệ Kiểu nói nhưng bên cạnh vẫn có “hậu duệ” của Hóa địa bộ kế thừa hoằng truyền luật Ngũ phần với thời gian khá dài.

Lý do vì sao dòng truyền thừa luật Tạng của Hữu bộ cũng như Hóa địa bộ về sau bị tiêu trầm? Bởi khi luật Tứ phần của Pháp tạng bộ được Phật-đà-da-xá (Buddhayaśas) và Trúc Phật Niệm dịch vào năm Hoằng thủy thứ 12 (410), đến thời Nguyên ngụy Hiếu văn đế (471-499), đại sư Pháp Thông xiển dương luật Tứ phần, từ đây tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) khuếch trương mạnh dần, đến đầu đời Đường, khi Đạo Tuyên (596-667) xiển dương luật Tứ phần, biên soạn Tứ phần luật tỳ-kheo hàm chú giới bản (四分律比丘含注戒本), Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao (四分律刪繁補闕行事鈔) v.v… bắt đầu áp đảo các bộ luật khác, luật Thập tụng không được nhiều người trọng thị nữa, dần dà tuyệt tích. Có lẽ luật Ngũ phần cũng chung số phận[4].

Không biết thời kỳ bộ phái Hóa địa hưng phát tại đất Trung Hoa có truyền đến Việt Nam hay không, hoặc họ có đến Việt Nam bằng con đường nào khác, hiện tại chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến? Nhưng thời kỳ luật Thập tụng hưng thịnh thì thấy có ảnh hưởng tại Việt Nam qua lịch sử cao tăng Đạo Thiền, ông là người Giao Chỉ, sống ở chùa núi Tiên Châu. Năm Vĩnh minh thứ nhất (483), đến Trung Quốc, ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn, dùng luật Thập tụng dạy Tăng ni[5]. Do đó chúng ta suy đoán trước đó và đến thời Đạo Thiền, luật của Hữu bộ đã được truyền trì tại Việt Nam. Còn sử liệu về tông luật Hóa địa bộ hoằng hóa tại Việt Nam thì trắng hoàn toàn.

Chúng tôi tóm tắt một lần nữa, dấu chân hoằng hóa của bộ phái này được tìm thấy ở phía Nam và Bắc Ấn-độ. Huyền Trang[6] và Nghĩa Tịnh[7] đều gặp họ ở Uḍḍiyāna và Đông Turkestan. Dựa vào tiểu sử dịch giả Buddhajīva (Phật-đà-thập) dịch, có thể biết Luật tạng (luật Ngũ phần) của họ thường lưu hành ở Kaśmīra[8]. Đại sư nổi tiếng học phái Du-già hành (Yogācāra) là Asaṅga (Vô Trước), quê quán ở Puruṣapura, ban đầu ngài là người của Hóa địa bộ[9]. Một tu viện của Hóa địa bộ (Mahīśāsaka) ở phía nam Takṣaśilā được nhắc đến trong bia ký[10]. Mặt khác, họ cũng được chứng thực sống ở Tích-lan (Ceylon)[11]. Họ có một tu viện tại Nāgārjunikoṇḍa (Long thọ sơn [龍樹山]) bên bờ sông Kṛṣṇā[12]. Sử liệu không nói họ đi xa hơn như vùng Giao Chỉ (Việt Nam) và nếu Hóa địa bộtruyền thừa tại Việt Nam hay không phải kể đến giới đàn. Có thể giới đàn đầu tiên là thời Khương Tăng Hội (sinh năm 200), sư thọ giới khoảng năm 220, trong lời tựa kinh An-ban thủ ý, Khương Tăng Hội có nhắc đến từ ‘ba Thầy’ (tam sư) là một bộ phận của thành ngữ giới đàn Phật giáo ‘tam sư thất chứng’, có nghĩa trong nghi thức truyền giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni tiêu chuẩn đòi hỏi phải có sự hiện diện của ba thầy: Hòa thượng, yết-ma và a-xà-lê, và bảy thầy làm chứng (hay gọi là thất chứng). Việc nhắc đến ‘ba thầy’ này, phải chăng ám chỉ đến việc thọ đại giới[13]. Mà từ thời Hội đến Đạo Thiền khả nghi là dòng truyền thừa của Hữu bộ.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng, Thời nhà Lý (Lý Công Uẩn, 974-1028), Canh tuất, niên hiệu Thuận thiên thứ 1 (1010), cấp độ điệp cho nhân dân làm sãi. Giáp dần, năm thứ 5 (1014), tháng 5, Hữu Nhai tăng thống là Thẩm Văn Uyển tâu xin lập giới trường ở chùa Vạn Tuế, cho tăng đồ thọ giới. Vua chuẩn y. Bính thìn, năm thứ 7 (1016), cấp độ điệp cho hơn một ngàn người ở Kinh sư làm tăng đạo. Kỷ mùi, năm thứ 10 (1019), xuống chiếu cấp độ điệp cho nhân dân trong nước làm tăng. Canh thân, năm thứ 11 (1020, nhằm đời Tống, Thiên hy năm thứ 4), mùa thu tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ xin được Tam tạng kinh, vua xuống chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang Quảng Châu để đón[14]. Chúng ta có thể suy đoán trong giai đoạn này, vấn đề cấp độ điệp (度牒, cấp chứng minh thư cho Tăng lữ xuất gia) là ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tại Trung Quốc cấp độ điệp có từ thời Bắc ngụy. Đến đời Đường, năm Khai nguyên 17 (729), nhà vua hạ chiếu bắt Tăng ni xuất gia phải có Tăng tịch. Và kể từ năm thứ 6 niên hiệu Thiên bảo (747), Tăng ni xuất gia sẽ do triều đình cấp độ điệp để làm bằng chứng miễn lao dịch[15]. Mà từ thời Đường, tông luật Tứ phần đã phát triển mạnh kéo dài đến đời Tống, đời Tống có hai vị luật sư nổi tiếng kế thừa tông luật Tứ phần là Doãn Kham (?-1061) và Nguyên Chiếu (1048-1116). Do đó, thời Lý tại Việt Nam mô phỏng “độ điệp” cấp cho Tăng ni và tổ chức giới đàn có khả năng là truyền giới theo hệ luật Tứ phần của Pháp tạng bộ.

Sau đó một giai đoạn dài 600 năm, có lẽ giới đàn không được tổ chức ở Đàng Ngoài, các vị thiền sư chỉ phát nguyện thọ giới Bồ-tát như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), 19 tuổi xuất gia với Thiền sư Chân Trụ Tuệ Nguyệt được đặt pháp danh Tuệ Đăng. Sau đến núi Côn Cương làng Phù Lãng, tham học với Thiền sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc, khi đắc pháp được đổi tên là Chân Nguyên. Năm tiếp theo, Chân Nguyên lập đàn Diệu pháp liên hoa, thỉnh Phật Thích-ca, Di-đà và Di-lặc chứng đàn, thiền sư đã đốt hai ngón tay để thọ giới Bồ-tát. Chính thiền sư Chân Nguyên khi soạn tác phẩm Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới bằng Hán văn, ông hoàn toàn im lặng không trình bày nghi thức thọ giới của tỳ-kheo (250 giới), chỉ kể tới giới đàn cho người tại gia thọ năm giới, giới đàn thọ 8 giới, 10 giới của sa-di và giới đàn thọ 58 giới của Bồ-tát. Thời kỳ này theo giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, Phật giáo mang sắc thái dân tộc, không phải đời sống kỷ luật như tổ chức Phật giáo Ấn-độ[16]. Song trong giai đoạn Phật giáo thế kỷ XVII này, ở Đàng Trong, thời Nguyễn Phúc Thái (1649-1691), Chúa Nguyễn thứ 5, có sư Thạch Liêm (1633-1704) người Trung Quốc, qua Việt Nam tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm và chùa Di-đà ở Hội An, cùng năm Ất Hợi, 1695[17]. Cả hai giới đàn này đều thỉnh Tăng Trung Quốc qua truyền, đây chắc chắn cũng là giới đàn theo hệ luật Tứ phần Pháp tạng bộ.

THỜI CẬN ĐẠI

Từ đó cho đến sau này, tại Việt Nam các giới đàn cũng như những vị tông sư truyền thừa đều thuộc tông Pháp tạng bộ. Thời cận đại, nếu kể đến thế hệ thứ nhất truyền thừa luật Tứ phầnHòa thượng Đôn Hậu (1905-1992), Hòa thượngbiên soạn Cách thức sám hối các tội, luật Tứ phần tỳ-kheo-niThế hệ thứ hai là Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909-1984), những tác phẩm Hòa thượng trước tác và chủ biên: Luật tỳ-kheo – Tứ phần hiệp chú (1991) 2 tập, Yết-ma yếu chỉNghi thức quy giớiNghi thức truyền giới và bố-tát… (thế hệ này kể thêm, ngoài Bắc có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành Trụ). Thế hệ thứ ba là Hòa thượng Thích Đỗng Minh (1927-2005), do công trạng của Hòa thượng hoằng truyền và biên dịch luật học nhiều nhất nên mọi người xưng tụng là Tuyên luật sư. Hòa thượng dịch luật Tứ phầnNgũ phần, Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, …; trước tác Nghi thức truyền giới, “Tỳ-ni, sa-si, oai nghi cảnh sách văn vần”… Thế hệ thứ tư là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-), ngài là người có công chấn hưng, truyền dạy luật học trước tình hình giềng mối Tăng-già rạn nứt trong xã hội đương thời. Ngài đã trùng biên, hiệu đính lại những bộ luật mà quý Hòa thượng dịch thuật trước đó như Tứ phần, Ngũ phần, Tứ phần hiệp chú, Yết-ma yếu chỉ… Và dịch thêm những phần Skandhaka (Kiền-độ) của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, như An cư sự, Xuất gia sự… Trước tác Du-già bồ-tát giới

Đến đây chúng ta có thể kết luận, Hòa thượng Trí Thủ có công hoằng truyền tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ thời cận đại, Hòa thượng Đỗng Minh là người đầu tiên truyền dịch luật Ngũ phần của Hóa địa bộ, xem như dấu chân truyền giáo của hai bộ phái này có mặt tại Việt Nam, những người đệ tử cũng như học trò tiếp nối biên tập truyền dạy thì sự kế thừa đó sẽ tiếp diễn đến mai sau. Ví như sự tiếp nối của Hòa thượng Tuệ Sỹ, rồi hậu bối sẽ có người tiếp theo.

Phật lịch 2566 – mùng 6 tháng Giêng, năm Quý mão.
Thích Tâm Nhãn cẩn chí.


[1] 高僧傳 11, T50n2059, p. 403b12.

[2] 高僧傳, p333a20, p333b26.

[3] 二十二种大藏经通检, 中华书局 1982, p. 417, 611.

[4] Cf. zh.wikipedia.org/zh-hans/律宗.

[5] 續高僧傳, T50n2060, p.607b0130. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 783.

[6] Tây Vực ký 3, T 2087, p. 882b18.

[7] Nam hải ký quy nội pháp truyện 1, T 2125, p. 206c1.

[8] Cao tăng truyện 3, T. 2059, p. 339a3; cf. P. Demiéville, A propos du concile de Vaiśālī, in T’oung Pao, XL, 1951, p. 293.

[9] Tây Vực ký 5, T51, No. 2087, p. 896b28.

[10] Epigraphia Indica, I, 1892, No. 29, pp. 238.

[11] Pháp Hiển ở Tích-lan tìm được bản luật của bộ phái này (Cao tăng Pháp Hiển truyện, T 51, No. 2085, p. 865c24).

[12] Cf. E. Frauwallner, ibid., p. 20-21.

[13] Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam I, p. 276; Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 310.

[14] Đại Việt sử ký toàn thư II, 2004, p. 257-269.

[15] 佛光大辭典, 慈怡法師主編, p. 3779.

[16] Cf. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng I, 2018, p. 14-55, & vi.wikipedia.org/wiki/Chân_Nguyên.

[17] vi.wikipedia.org/wiki/Thạch_Liêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10541)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6106)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9374)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6430)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5986)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7512)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7328)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5221)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8114)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5935)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9653)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7425)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7455)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6244)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5325)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5876)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5679)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5723)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4100)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7538)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5733)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21954)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7110)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5043)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6454)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5831)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5022)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7070)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6061)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5585)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5899)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6028)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6854)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6448)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6094)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6506)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6202)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6395)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5620)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6919)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4572)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7802)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6054)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7310)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7743)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5511)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5158)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5691)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5546)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5535)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5030)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4292)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6060)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5641)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6302)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8540)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5260)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant