Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trước Tác Hoa Nghiêm Học Của Đại Sư Trừng Quán

Saturday, February 8, 202518:24(View: 534)
Trước Tác Hoa Nghiêm Học Của Đại Sư Trừng Quán

Trước Tác Hoa Nghiêm Học Của Đại Sư Trừng Quán

Thích Trung Nghĩa


hinhphat41

Kinh Hoa Nghiêm
 còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừaBản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu của đức Phật Tì-lô-giá-na, hạnh nguyện thành Phật và quá trình tu hành du phương tham học của Thiện Tài đồng tử, nhập Phổ Hiền tam muộichứng nhập biển diệu trang nghiêm Như Lai tạng tâm. Đại ở đây, ý nghĩa là chu biến, bao hàm. Phương, ý nghĩa là phương chứng, nghĩa lý kinh này chân chánh chính xác, không chệch hướng một mặt nào. Phương quảng là chỉ cho phần phương quảng trong thập nhị phân giáo. Phương quảng là thay cho Đại thừa, và hàm nghĩa phương đẳng tương tự. Hàm nghĩa chữ đại vốn cùng phương quảng giống nhau, đã đại còn phương quảng. Hoa là trang nghiêmhoa nghiêm. Hoa là nhân, Phật là quả, Hoa nghiêm và Phật cấu thành nhân quả liên quan. Phật là người năng chứng. Pháp là sở chứng. Đứng từ giác độ Hoa nghiêm tam thánh (华严三圣) để thuyên thích, thì dùng đại trí tuệ của bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, để vận hành đại hạnh nguyện của bồ-tát Phổ Hiềntừ pháp thân thanh tịnh của hai ngài này để trang nghiêm Tì-lô-giá-na Phật.[1]

Bài kệ Ngũ thời nổi tiếng của đại sư Thiên Thai Trí Giảmô tả sự thuyết pháp của đức Phật45 năm, phân biện năm loại giáo pháp từ cạn đến sâu, lần lượt u thâm ẩn mật, gọi là ngũ thời giáo.

Câu đầu: “Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật”, thời đầu tiên là thời Hoa Nghiêm, chỉ cho đức Phật thành đạo 21 ngày đầu tuyên thuyết kinh Hoa NghiêmTừ nội chứng chân như pháp thân của Phật-đà lưu xuất ra, như mặt trời mới mọc, ánh nắng rọi lên đỉnh núi, chỉ có hàng bồ-tát đại căn tánh như bồ-tát Văn Thù Sư LợiPhổ Hiền, hoặc đại đệ tử đức Phật như Xá-lợi-phất, mới có thể thể nhận hiệu quả hóa ích, còn hàng thanh văn khi nghe thì như đui như điếc

Câu 2: “A-hàm nhị thập phương đẳng bát”, thời thứ 2 là thời A-hàm và thời thứ 3 là thời Phương đẳng, chỉ cho giảng thuyết suốt  12 năm. Thời A-hàm, giảng thuyết giáo nghĩa tứ A-hàm kinh. Giảng thuyết tứ đếthập nhị nhân duyên v.v... cho năm tỉ-khưu như Kiều-trần-như tại vườn Lộc uyển nên còn gọi thời Lộc uyển; thời này như mặt trời dần mọc lên, soi đến sơn cốc u tĩnh, thâm sâu. Thời Phương đẳnggiảng thuyết kinh điển Đại thừa như kinh Lăng-già, kinh Duy-ma, kinh Thắng-man v.v... Thời này như mặt trời rọi trên đất phẳng lỳ, như đem nước sửa đậu nành tái tinh chế thành đậu hủ. 

Câu 3: “Nhị thập nhị niên bát-nhã đàm”, thời thứ 4 là thời A-hàm, chỉ cho tuyên thuyết kinh Bát-nhã suốt 22 năm, phá gãy thiên chấp của Tiểu thừa phân biệtĐức Phật thuyết pháp ở bốn nơi: Núi Linh Thứu, tinh xá Kỳ viên tại thành Xá-vệ, cõi trời Tha hóa tự tại và tinh xá Trúc lâm tại thành Vương-xá v.v...

Câu cuối: “Pháp Hoa Niết-bàn cộng bát niên”, thời thứ 5 là thời Pháp Hoa, Niết-bàn, chỉ cho 8 năm cuối cùng tuyên thuyết kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu. Trước lúc thị tịch, chỉ còn một ngày một đêm ở cõi đời, Phật-đà vẫn tuyên thuyết kinh Niết-bàn. Thời này như mặt trờiban trưa rọi sáng trên đất rộng, như phô mai (thục tô) tái tinh chế thành sửa tinh chất (đề hồ).

Kinh Hoa Nghiêm hiện nay lưu tồn 3 bản dịch khác nhau. Bản dịch của Phật-đà-bạt-đà-la, gọi là Thập Lục Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm 60 quyển), còn gọi cựu Hoa NghiêmBản dịch của Thật-xoa-nan-đà, gọi là Bát thập Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm 80 quyển), còn gọi tân Hoa Nghiêm. Bản dịch hậu phần kinh Hoa Nghiêm Phạn bản của tam tạng Ô Trà vương quốc Bát-nhã, với sự hiệp trợ của Trừng Quán phụ trách thẩm định, gọi là Tứ thập Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm 40 quyển). Hoa Nghiêm tông cũng căn cứ tư tưởng kinh này mà phát triển ra học thuyết pháp giới duyên khởi, thập huyền, tứ pháp giới; còn chia giáo phápPhật thành ngũ giáotiểu giáo, thỉ giáo, chung giáođốn giáo và viên giáo. Theo giáo tài đại học Baptist Hong Kong Thuyên thích hiện đại Phật học Trung Quốc,[2]sự truyền thừa Hoa Nghiêm tôngPháp Tạng (Hiền Thủ) được xem là đệ tam tổ, và “Thủy tổ là đại sư Đổ Thuận, nhị tổ là Trí Nghiễm. Tuy Đỗ Thuận được xem là thủy tổ, nhưng quy cách nghĩa lý thực ra do Pháp Tạng kiến lập”, nên tông phái này còn gọi là Hiền Thủ tôngKế tục có Trừng Quán và Tông Mật.

Đại sư Trừng Quán sinh năm 738, quê quán huyện Sơn Âm, Việt châu. Lúc mới sinh ra, ánh hào quang tỏa trên nóc nhà, rọi khắp thôn xóm. Lúc nhỏ, thích gom cát un tháp làm niềm vui,[3]hai tay dài quá đầu gối, có 40 cái răng như đức tướng trang nghiêm của đức Phật, tiếng nói êm rỗng như tiếng chuông, mắt sáng rực như ban đêm phóng ra ánh sáng, mỗi ngày có thể nhớ vạn lời.  Lên 9 tuổi, lạy Bái thiền sư ở chùa Bảo Lâm làm sư phụ, chưa tới một năm thì thông thạo Tam tạngXuất gia năm 11 tuổi, bắt đắp ca-sa, bèn lên pháp tòa diễn giảng kinh điển như kinh Bát-nhã v.v... Năm 20 tuổi, y chỉ đại sư Đàm Nhất để thọ cụ túc giới, y chỉthiền sư Thường Chiếu để thọ bồ-tát giới. Sau đó du phương tham học Tướng bộ luật, Nam sơn luật học,  Quan Hà Tam luận học, Kinh Khê Trạm Nhiên học, thiền lý Bắc tông v.v... đặc biệt khế lĩnh Khởi tín luận thâm sâubộc lộ tư tưởng Thiền tôngThiên thai tông và thành phẩn Khởi tín luận dung hợp

Niên hiệu Đại lịch thứ 17 (776), đại sư ở chùa Đại Hoa Nghiêm trên Ngũ đài sơn, giảng kinh Hoa Nghiêm, ngẫm sâu cảm thấy cựu sớ Hoa Nghiêm với văn tự rườm ràý nghĩa hạn hẹp, bèn phát nguyện soạn thuật tân sớ, trải qua 4 năm, soạn hoàn thành Hoa Nghiêm kinh sớ 20 quyển; đệ tử Tăng Duệ dựa sớ này rồi soạn tân sớ Hoa Nghiêm kinh tùy sớ diễn nghĩa saohơn 10 quyển. Đường Đức tông ban thánh chỉ đại sư soạn sớ để giải thích kinh Hoa Nghiêm, tại chùa Thảo Đường trên núi Chung Nam, soạn thành Trinh Nguyên tân dịch Hoa Nghiêm kinh sớ 10 quyển. Trước lúc soạn Hoa Nghiêm kinh sớ sao (华严经疏钞) 80 quyển, đầu tiên soạn kệ tụng Quy kínhngõ hầu quy kính Tam bảo, thỉnh Tam bảo gia bị, khiến cho trí tuệ khai mở. Bốn câu kệ tụng là:

“Quy mạng mười phương cực tam tếSát trần viên minh Điều ngự sưPháp giới công đứcđại bi vân. Tì-lô-giá-na đại trí hải”. Câu đầu là đem sinh mạng của chính mình quy y tất cả Phật bảo trong mười phương ba đờiSát trần là cõi nước vi trầnviên minh là trí tuệ và công đức viên mãnĐiều ngự sư là một trong mười danh hiệu đức Phật, cũng là dùng các phương pháp để điều ngự chúng sanh trong ba cõi khiến cho ly khổ đắc lạc. Công đức đại bivân (大悲云) là công đức của Phật như mây trên hư khôngĐại trí hải là biển đại trí tuệ, biển đại giác.

Trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ có ghi lại các cuộc tranh biện về quan điểmkiến giải khác nhau giữa các học phái, giữa thầy và trò; lúc lưu học Ấn Độ của đại sư Huyền Trang, từng tham gia Vô Giá đại hội 18  ngày do vua Giới Nhật thiết lập tại thành Khúc Nữ, Huyền Trang“Thành lập Duy thức tỉ lượng 唯識比量 mà danh tiếng tỏa khắp”;[4]hơn vạn người đều chẳng ai có thể phá gãy, có Tiểu thừangoại đạo, còn có người Đại thừa, chẳng một ai có thể phá, rồi sau đó, Tiểu thừa tôn Huyền Trang là Giải thoát thiênĐại thừa tôn là Đại thừa thiên.[5]Trước thời Trừng QuánTuệ Uyển  là đệ tử thượng thủ của Pháp Tạng, nhưng lại phản nghịch học thuyết của thầy mình, chủ yếu đổi ngũ giáo thành tứ giáo, đổi thập huyền thành lưỡng trùng thập huyền: 10 loại đức tướng và 10 loại nghiệp dụngcăn bản phủ định thuyết thập huyền truyền thống, nên bị đuổi khỏi Hoa Nghiêm tông chánh thốngTrong Tân dịch đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm knh âm diễn 2 quyển của Tuệ Uyển (慧苑), phẩn Bài tựaghi Pháp Uyển từng theo học tập với Pháp Tạng 19 năm, thâm thông nghĩa lý kinh Phật, nhất là tinh thông kinh Hoa NghiêmSau khi bát thập Hoa Nghiêm do tam tạng Bát-nhã phiên dịch hoàn tấtPháp Tạng nỗ lực lược sớ bản nàynhưng mới được một phần tư thì qua đời. Pháp Uyển và đồng môn soạn phần còn lại, rồi Pháp Uyển lấy tên là Tục Hoa nghiêm kinh lược sớ san định (续华严经略疏刊定记) 20 quyển, nhưng nay hiện còn 13 quyển. Trong Hoa Nghiêm kinh sớ quyển 2 và Tùy sớ diễn nghĩa sao quyển 1, 2, 10 của Trừng Quán, tiến hành phản bác Tuệ Uyển, đứng từ nghĩa lý Hoa Nghiêmlập trường duy thức, thuyết phán giáo, từ đó mà khôi phục thuyết thập huyền trong Hoa Nghiêm kinh thám huyền ký của Pháp Tạng, và tiến hành phát triển.[6]

Đại sư viên tịch vào ngày mồng 6 tháng 3 niên hiệu Khai Thành (838) thời Đường Văn tông, biết chính xác thời gian mình vãng sanh, chiêu tập đệ tử các nơi lại phó chúc, sau đó bèn ngồi kiết-già mà an tường viên tịchan táng trong vách đá núi Chung Nam, tháp tên Diệu giác (妙觉), văn bia do tướng quốc Bùi Hưu soạn, có đoạn ghi Trừng Quán: “Hưởng thọ một trăm lẻ hai tuổi, Tăng lạp tám mươi ba...... ngày thuộc vạn lời, ăn ngày một bữa suốt đời, không rời y một đêm, trải qua chín vương triều, làm thầy bảy đời vua”.[7]Đường Văn tông sùng kính ngưỡng mộ đại sư từng làm thầy của tiên đế, đặc biệt bãi triểu 3 ngày, ban chiếu chỉ trọng thần mặc tang phục, cả nước phải cử hành truy niệm một cách thống thiết.

Tương truyền, sau đại sư viên tịch, có một tăng nhân chứng quả a-la-hán ở Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng pháp, đến cao nguyên Phách Mễ Nhĩ, chợt thấy có hai đứa bé bay cao trên hư không mà lướt qua mặt. Vị a la hán này vận dụng thần thồng đứng trước mặt hai đứa bé, chận lại và hỏi đến nơi nào? Đến làm gì? Đáp: Chúng tôi đến Trung Quốc để thỉnh răng của bồ-tát Hoa Nghiêm, chuẩn bị cúng dường Văn Thù đường ở Ấn Độ. Lại hỏi: Ai là hóa thân của bồ-tát Hoa Nghiêm? Đáp: Pháp sư Trừng Quán. Nói xong hai đứa bé bay lên hư không mà đi. Vị a la hán này đến thành Trường An, đem việc này tấu lên triều đình, cho mở quan tài đại sư, quả nhiên thấy thiếu một cái răng hàm trên, lúc đó mọi người mới biết đại sư là hóa thân của bồ-tát Hoa Nghiêm.

Đại sư có hơn 100 đệ tử xuất gia, có bốn vị siêu xuất là: Tông MậtTăng DuệPháp Ấn và Tịch Quang, thế nhân gọi là môn hạ tứ triết (門下四哲), [8]trong đó Tông Mật là người kế thừa pháp thống của đại sư. Các bộ sử thư Phật giáo ghi việc sắc phong của các vương triều, như Đường Đức tông hạ chiếu chỉ sắc hiệu đại sư là Trấn quốc đại sưĐại Tăng lục nhiếp nạp thiên hạ. Vào cung điện giảng kinh Hoa Nghiêm, được sắc hiệu Trừng QuánThanh Lương quốc sư. Đường Hiến tông sắc hiệu Tăng thống Thanh Lương quốc sư. Đường Văn tông sắc hiệu Đại thống quốc sưgiáo thọ Hòa thượng.

Tuy làm quốc sư cho nhiều đời vua, nhưng bản nguyện tu trì nghiêm mật, đời sống đạm bạc, còn phát mười hạnh nguyện nên thế nhân gọi là Thanh Lương thập nguyệnCuộc đời của đại sư soạn tác Hoa Nghiêm học như biển rộng sông sâu, cao như chóp núi, quả thực đạt đến cảnh giới siêu phàm nhập thánhthể nhập vô tận pháp giới, khiến người con Phật kính ngưỡng vô cùng; trong đó Hoa Nghiêm kinh sớnghiễm nhiên là một mắt xích trọng yếutrong kho báu Phật học.



[1] Tham khảo Dương Duy TrungHình thành, Hán dịch, tư tưởng căn bản và ý nghĩa tu hành luận của kinh Hoa Nghiêm

[2] Ngô Nhữ QuânThuyên thích hiện đại của Phật học Trung QuốcNxb. Văn Tân, Trung Hoa Dân quốc năm 84, tr.87

[3] Cao Tăng truyện 21-1, đại sư Thanh Lương (Trừng Quánghi “Thân cao chín thước 4 tấc” (身長九尺四寸), lời này cũng dựa theo văn bia Trừng Quán của tướng quốc Bùi Hưu tự thân soạn

[4] Trương Mạn Đào biên tập, Thích Trung Nghĩa dịch, Luận lý học Phật giáo và biện chứngpháp, phần: Tất nhiên tính và khái nhiên tính luận lý học Phật giáo của Lý Nhuận Sanh, Nxb. Tôn giáo, 2024, tr.132

[5]Tham khảo Thích Duy Hiền, Duy thức trát ký, phẩn: Địa vị duy thức học trong Phật giáo, Nxb. Văn hóa Tôn giáo, 2006

[6]Tham khảo Hoàng Sám Hoa (黃懺華), Trung Quốc Phật giáo
[7] 釋祖琇 , Long hưng Phật giáo biên niên thông luận  (隆兴佛教编年通论). Nxb. Nhân dânQuảng Đông, quyển 25, tái bản lần 1, 2020, nhiều sử gia Phật giáo đều lấy thuyết này. Nhưng Tống cao Tăng truyện, q.5 ghi đại sư hưởng thọ hơn 70 tuổi, nhưng điều này chưa căn cứ rõ.
[8] Theo Trung Quốc Phật giáo

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 129)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(View: 337)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(View: 374)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(View: 488)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất gia và tại gia mỗi ngày.
(View: 599)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(View: 579)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(View: 478)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(View: 571)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(View: 669)
Việt Nam là quốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(View: 640)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 873)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 639)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(View: 613)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(View: 718)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(View: 512)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(View: 648)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(View: 617)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 624)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 603)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 820)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(View: 682)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 708)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 639)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 899)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 912)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 1095)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 912)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 1043)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 1270)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 1171)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 975)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 886)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 930)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 802)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 842)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 1439)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 1124)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 1012)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 1189)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 1321)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 1218)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 1272)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 1625)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 1437)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 1431)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 1363)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1832)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 1491)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 1375)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 1489)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 1587)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 1346)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1990)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 1403)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 1480)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 1652)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1587)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 1546)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM