Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tính Nối Kết Trong Kinh Pháp Hoa

06 Tháng Tư 202515:48(Xem: 331)
Tính Nối Kết Trong Kinh Pháp Hoa

Tính Nối Kết Trong Kinh Pháp Hoa

Nguyễn Thế Đăng

 hinh phat 12

 


Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.

 

1/ Nối kết cõi với cõi, chúng sanh với chúng sanh

Bấy giờ, Phật từ nơi tướng lông trắng giữa hai mày phóng ra ánh sáng chiếu khắp cả một vạn tám ngàn cõi phương Đông, dưới chiếu đến địa ngục A tỳ, trên thấu đến trời Sắc cứu cánh. Chúng ở cõi này đều thấy tất cả các loài chúng sanh ở các cõi kia. 

Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe các vị thuyết pháp… Lại thấy các đại Bồ tát tu hành Bồ tát đạo…

(Phẩm Tựa)

Trong ánh sáng của Phật, của Phật tánh hoàn hảo, không còn bị che mờ bởi phiền não chướng và sở tri chướng, các cõi đều thông suốt với nhau, nối kết với nhauTánh Không và ánh sáng là môi trường cho chúng sanh, mọi sự vật xuất hiện và hiện hữu rồi tan biến.

Trong sự kết nối này, chúng sanh cõi này kết nối với chúng sanh các cõi khác, “đều thấy tất cả các loài chúng sanh ở các cõi kia”, và kết nối với chư Phật, chư đại Bồ tát, “nghe và thấy các ngài”.

Đây là điều phẩm Hiện bửu pháp nói là, “thông làm một cõi nước Phật thanh tịnh”.

Sự kết nối vũ trụ này đặt nền trên tánh Không và ánh sáng. Tánh Không vì có ở khắp cả và thâm nhập tất cả mọi hiện tướng. Ánh sáng vì làm cho thấy được lẫn nhau, thông suốt với nhau.

Tánh Không là trí huệ thấu suốt tánh Không, ánh sáng là phẩm tính đi cùng tánh Không. Sự kết nối, thống nhất tất cả là đại từ bi.

 

Chỉ trong đoạn này, cho thấy vũ trụ là trí huệ, ánh sáng là từ bi. Chúng là một bản tánh hợp nhất, là nền tảng cho vũ trụ và chúng sanh xuất hiện. Thấy, biết và sống trong nền tảng ấy, người ta sẽ thấu hiểu vũ trụ.

 

2/ Nối kết thời gian quá khứhiện tại và tương lai 

Phật Đa Bảo thành tựu giác ngộ từ lâu xa, có nguyện rằng khi nào, chỗ nào có nói kinh Pháp Hoa, thì tháp bảy báu trong đó có ngài sẽ hiện ra để chứng minh. Sau đó Phật Đa Bảo chia nửa toà ngồi với Phật Thích Ca.

Phật quá khứ “đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước”, nối kết và là một với Phật hiện tại; và tương lai Phật Đa Bảo cũng sẽ xuất hiện với những vị Phật nào giảng nói kinh Pháp Hoa. Phật Đa Bảo tượng trưng cho Phật không có thời gian nên có thể xuất hiện ở bất cứ thời gian nào. Phật Đa Bảo là Phật pháp thânthường trụ.

Ở đây Phật Đa Bảo xuất hiện và chia nửa tòa ngồi với Phật Thích Ca, vị Phật lịch sử của hiện tạiPháp thân luôn luôn cùng đồng hành với hóa thân. Cái vĩnh cửu không có thời gianluôn luôn cùng đồng hành với thời gian lịch sử, và hễ khi nào có nói kinh Pháp Hoa, có tâm thức Pháp Hoa thì pháp thân sẽ hiển lộ.

Cho nên, đức Phật Thích Ca nói:

Nếu người nói Pháp Hoa

Ở riêng nơi vắng vẻ 

Yên lặng không tiếng người 

Đọc tụng kinh điển này 

Bấy giờ ta sẽ hiện 

Thân thanh tịnh sáng suốt

Nếu quên mất câu chữ 

Nói cho khiến thông thuộc

Nếu người đủ đức này 

Hoặc nói cho bốn chúng

Chỗ vắng đọc tụng kinh 

Đều thấy được thân ta. 

Người đó vui nói pháp 

Giảng giải không trở ngại 

Nhờ các Phật hộ niệm 

Hay khiến đại chúng mừng 

Nếu ai gần pháp sư

Mau được đạo Bồ tát

Thuận theo thầy đó học 

Được thấy hằng sa Phật. 

(Phẩm Pháp sư thứ 10)

 

Giữa Phật với Phật, sự nối kết không có thời gian, không có không gian, và Phật với chúng sanh luôn luôn có sự nối kết:

Bấy giờ đại chúng thấy hai Như Lai xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp bảy báu… Đức Thích Ca dùng lực thần thông đưa đại chúng lên trong hư không” (để được thấy nghe)

(Phẩm Hiện bửu tháp)

Hư không tượng trưng cho tánh KhôngĐức Phật Thích Ca kết nối với đại chúng qua tánh Không.

 

3/ Một trường hợpBồ tát Thường Bất Khinh 

Đức Phật Thích Ca nói:

Trong đời tượng pháp của Oai Âm Vương Như Lai những Tỳ kheo nhiều kiêu mạn có thế lựclớn. Bấy giờ có Bồ tát Tỳ kheo tên Thường Bất Khinh, gặp bốn chúng, chỉ lễ lạy mà nói rằng: Tôi chẳng dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật

Có người lòng chẳng trong sạch sanh giận hờn buông lời ác mắng nhiếc. Có người lấy gậy, cây, ngói, đá đánh ném. Ông chạy xa tránh, nhưng vẫn nói lớn: Tôi chẳng dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật

Trải qua thời gian vô sốTỳ kheo đó gặp các đức Phật, được nghe kinh Pháp Hoa và cũng giáo hóa cho ngàn muôn chúng. Bồ tát Thường Bất Khinh đó chính là Phật Thích Ca bây giờ, và bốn chúng giận ghét khinh tiện ngài thuở trước hiện giờ là năm trăm Bồ tát, năm trăm Tỳ kheo, năm trăm cư sĩ nam, đều bất thối chuyển đối với đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác”.

(Phẩm Bồ tát Thường Bất Khinh, thứ 20)

 

Sự nối kết của Bồ tát Thường Bất Khinh với các người khinh khi đánh ném đá ngài hồi ấy vẫn còn đến bây giờ, nhưng đã đổi khác về bản chấtSở dĩ như thế, vì sự nối kết của Tỳ kheo Thường Bất Khinh khởi từ tốt, tích cực, được tăng thêm và của những người kia khởi từ xấu, tiêu cực, được giảm đi.

Có sự chuyển hóa như vậy vì mối nối kết được thiết lập trong và qua tánh Không và từ bi. Sự nối kết là điều quan trọng của Bồ tát hạnh.

Sự nối kết bằng Bồ tát hạnh dựa trên cả hai chân lýtương đốiquy ước, và chân lý tuyệt đốitối hậuChân lý tương đốiquy ước là thế đếthời gian thế tục, có quá khứ đến hiện tại, có nhân quả, tất cả không mất đi mà được gia công cho thêm tốt đẹp bằng điều thiện, bằng từ biChân lý tuyệt đốitối hậu là chân đế, là tánh Không. Chính chân đế tánh Không này giải thoát cho thế đế, cho sự nối kết trong thời gian thế tục của con ngườiGiải thoát cho thế đế, chứ không phá hủy thế đế, bởi vì thế đế lưu giữ sự nối kết qua thời gian, để đem lại sự chuyển hóa cho mình và cho người.

 

4/ Nối kết mà không mắc vào sanh tử

Nối kết của người đời là sự vướng mắctrói buộc với người khác. Bồ tát hạnh không từ bỏnối kết, không từ bỏ những người khác. Nhưng Bồ tát hạnh nối kết bằng và qua tánh Không, nên nối kết mà không bị ràng buộc.

 

Nối kết, không bỏ chúng sanh mà vẫn giải thoát, đây là con đường của Bồ tát, được giảng giải rõ ràng trong kinh Pháp Hoa. Sự nối kết ấy được khai triển theo chiều rộng không gianvà chiều sâu thời gian để thành vũ trụ, một vũ trụ tạo thành bằng mọi nối kết theo mọi chiều.

Đó là vũ trụ Chân Không - Diệu Hữu của kinh Pháp Hoa

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 344)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 482)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 512)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 484)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 685)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 793)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 822)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất gia và tại gia mỗi ngày.
(Xem: 954)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 842)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 717)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 851)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 799)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 1014)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 947)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 1154)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 900)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 899)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 1024)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 771)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 953)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 891)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 992)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 782)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 1134)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 852)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 921)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 799)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 1215)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1157)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 1314)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 1217)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 1352)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 1632)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 1466)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 1327)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1146)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1175)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 975)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1052)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 1744)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(Xem: 1456)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 1317)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 1461)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(Xem: 1486)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1448)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1603)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(Xem: 1942)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(Xem: 1729)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(Xem: 1628)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(Xem: 1732)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(Xem: 2182)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(Xem: 1896)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(Xem: 1658)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(Xem: 1803)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(Xem: 2028)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(Xem: 1589)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(Xem: 2344)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(Xem: 1642)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Ngày Quán Niệm Tháng Tư. Chủ đề: Nuôi dưỡng và trị liệu