Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bà già bán cái nghèo

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10972)
Bà già bán cái nghèo


BÀ GIÀ BÁN CÁI NGHÈO


Nói đến sự đau khổ, bất hạnh của con người trên thế gian này thì nhiều vô số kể, ở đây chúng tôi chỉ nói đến cái khổ do nghèo. Vậy ta làm thế nào để vượt qua cảnh nghèo? Đó là điều mà ai cũng mong muốn và ước mơ.

Người ta thường đặt câu hỏi: Tại sao mình nghèo mà người khác lại giàu? Không lẽ thượng đế lại sắp đặt như thế sao? Nghèo hay giàu đều có nguyên nhân của nó, không có gì bỗng dưng, khi không mà thành. Do ta không nhận thức sáng suốt, nhận định sai lầm, rồi cho rằng con người sanh ra nghèo hay giàu đều do trời định, số định, nói như vậy là oan cho trời quá.

Bố thí là sự cảm thông chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần quý kính, tôn trọng vì tình người. Nhờ bố thí ta giảm bớt lòng tham lam, ích kỷ nhỏ nhoi và rộng mở lòng từ bi đối với mọi người.

Biết rõ gốc nghèo khổ

Từ bỏn xẻn mà ra

Muốn không khổ, oán sầu

Phải thực hành bố thí.

Nói đến bố thí, ta không nên nghĩ đến giàu có, nhiều tiền của mới thực hành bố thí. Như ở trên đã nói, bố thí có nhiều cách như bố thí tấm lòng, bố thí lời nói, bố thí sự hiểu biết, hay bố thí hành động của mình… Việc thực hành bố thí cho người thân, người thương thì dễ, còn bố thí cho người mà mình từng oán hận, căm ghét trước đây mới là khó. Chúng ta nên học tập hạnh bố thí của Bồ tát: bố thí bình đẵng, không phân biệt đối tượng nào. 

Ngày xưa, đức Phật có người đệ tử tên Ca-chiên-diên đã chứng quả A-la-hán. Trên đường du hóa, ông gặp một bà lão nghèo than vãn sự đói khổ của bà gần tám chục năm. Nghe xong, Ca-chiên-diên giải thích nguyên nhân cái nghèo của bà và bảo bà hãy bán cái nghèo đi để hết khổ. Bà lão mừng hỏi: “Cái nghèo có thể bán được sao?” Vậy, nếu có ai mua con sẽ bán. Cái nghèo mà bán được thì trên đời này không còn ai nghèo nữa; ai mà không ham bán cái nghèo đi.

Nghèo là do hậu quả của việc không biết bố thí, cúng dường lại hay trộm cướp, lường gạt của người hoặc không biết tiết kiệm, làm một xài mười, hưởng thụ quá mức. Bố thí là cách bán cái nghèo tốt nhất.

Ngài Ca-chiên-diên đã giải thích cho bà lão hiểu rằng, việc giàu nghèo đều có nguyên nhân sâu xa của nó chớ không tự dưng mà bà bị nghèo như vậy. Người nghèo hèn thời nay là do đời trước không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ với ai. Do đó, thực hành bố thí là cách bán cái nghèo tốt nhất. sau khi nghe Ngài Ca-chiên-diên giải thích, bà lão cảm thấy những nỗi buồn khổ về thân phận nghèo hèn của mình đều tan biến trong tâm tưởng. Nhưng nghĩ lại, bà cũng tủi thân vì nhìn quanh mình chẳng có cái gì để bố thí hay cúng dường.

Khi thấy tâm thành kính muốn cúng dường của bà đến cao độ, ngài Ca-chiên-diên mới nói: “Bà lấy cái chén ra ngoài mé sông múc cho tôi chén nước, chắc chắn trong tương lai bà sẽ bán được cái nghèo.

Bà lão hoan hỷ trong lòng, nhanh chân ra sông mang về một chén nước trong, thành kính dâng lên cúng dường cho ngài Ca-chiên-diên. Từ đó bà lão lúc nào cũng cảm thấy trong lòng vui vẻ, hạnh phúc. Và mấy ngày sau bà lão qua đời trong bình an, tự tại.

Do phước báu cúng dường với tâm thành kính, bà lão được sanh lên cõi trời làm một Tiên nữ đầy đủ phước báu muốn gì được nấy. Bà vận dụng thần thông trở về trần gian thăm lại cái xác thân nghèo khổ ngày nào nay đang tan rã. Bà thầm cảm ơn Phật pháp, cảm ơn ngài ca-chiên-diên đã hướng dẫn, giúp bà vượt qua kiếp nghèo khổ thế gian một cách dễ dàng.

Bây giờ được thân Tiên nữ xinh đẹp lộng lẫy, muốn gì được nấy chỉ nhờ vào công đức cúng dường cho bậc A-la-hán một chén nước sông với tất cả tấm lòng tôn kínhhoan hỷ. Nay trong cảnh Tiên, Bà lập nguyện cúng dường mãi mãi để tăng trưởng tâm tình thương, lòng hỷ xảnuôi dưỡng phước báu.

thế gian, việc bố thí, cúng dườngruộng phước cho nhân loại. Người có tâm bố thí là tập cho mình có đời sống cao thượng, an vui trong hiện tạihạnh phúc cho mai sau. Và việc thực hành bố thí, cúng dường không cần phải người giàu có, tiền dư, bạc hậu mới có thể làm được. Người nghèo khổ, khốn khó, nếu biết cách vẫn có thể thực hành bố thí, cúng dường, tích lũy phước báu thì tai qua, nạn khỏi, có cơ hội sống an vui, hạnh phúc trong đời này và hướng tới một tương lai tốt đẹp

Trong dân gian có câu:” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời.” Không ai phải chịu nghèo hèn mãi mãi. Người biết làm việc thiện, biết bố thí, cúng dường thì cuộc sống sẽ được thay đổi, không đời này thì đời sau. “Ai khó ba đời” là vậy.

Trong kho tàng ca dao Việt nam cũng có câu: “Ai ơi ăn ở cho lành, kiếp này không gặp để dành kiếp sau.” Vì vậy chúng ta phải cố gắng làm lành, làm thiện, bố thí, cúng dường chứ đừng quan niệm rằng giàu, nghèo là do số trời đã định. Nói như vậy là không đúng, làm gì có ông trời nào xử sự bất công như thế.

Người có phước báu, đời này được giàu sang, quyền quý, nhưng nếu ta hưởng phước mà không biết thực hành bố thí, cúng dường để tích lũy thêm, đến khi hết phước làm ăn sa sút hay gặp tai họa thì cũng trở nên nghèo khổ, khốn khó. “Ai giàu ba họ” là ở chỗ này.

Tóm lại, người sanh ra phải chịu cảnh nghèo hèn, khốn khó là do hậu quả của lòng tham lam ích kỷ từ nhiều đời, nhiều kiếp và người được giàu sang là do kết quả của việc biết làm lành, làm thiện, biết giúp đỡ, chia sẻ, bố thí, cúng dường. Vì cái nhân quả khác nhau ấy, mà trong đời này, con người sinh ra đã có sự bất đồng về mọi phương diện giàu nghèo, tốt xấu, thông minh, đần độn…

Ngừời nghèo khổ dễ khởi tâm oán giận, vì sao? Bởi họ thấy mình luôn khốn khổ gian nan, đầu tắt mặt tối mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn trăm bề, vì vậy họ thường sanh tâm oán giận, căm ghét lung tung, trên trách trời, dưới trách đất, đố kỵ, ganh ghét với người tài cao đức trọng, do đó họ dễ gây ra nhiều điều tội lỗi.

Biết được điều này chúng ta sẽ không than oán, trách móc, đổ thừa tại, bị, thì là, không chịu vươn lên làm lại cuộc đời, cố gắng thay đổi đời sống.

Chúng ta phải biết gieo trồng phước đức, muốn được cái này thì phải có cái kia. Muốn có quả xoài ta phải gieo trồng hột xoài, chăm bón cây xoài, không, ta phải có tiền mới mua được trái xoài đó, nhân quả là vậy. Nhân quảgiáo lý nền tảng của đạo Phật, ta không gieo nhân mà muốn gặt quả thì không được.

Theo quan niệm của Phật giáo, giàu nghèo không phải ở nơi tiền tài, vật chất mà sự giàu nghèo đặt nặng trên nền tảng của đạo đức, tư cách và tấm lòng. Người có lòng nhân ái, sống biết thương yêu giúp đỡ mọi người, sống có phẩm chất đạo đức và nhân cách tốt thì mới đang quý, đáng trân trọng, ngược lại, người tuy có tiền của, tiện nghi mà không có được những yếu tố trên thì họ vẫn là người nghèo khổ.

Trong làm ăn, kinh tế, đức Phật dạy rằng, tài sản, của cải ta làm ra nên chia ra làm bốn phần:

- Phần thứ nhất, dùng chi tiêu trong cuộc sống hằng ngày.

- Phần thứ hai, tích lũy dự phòng cho hậu sự hoặc chi dùng khi gặp chuyện bất trắc.

- Phần thứ ba, lo việc phụng dưỡng, hiếu sự với ông, bà, cha, mẹ.

- Phần thứ tư, làm việc phước thiện, chia sẻ nỗi khổ đau với những người bất hạnh

Vậy, người nghèo thường oán giận cái gì? Oán giận ông trời bất công. Theo quan niệm của thần quyền, con người phải lệ thuộc vào ai đó. Ai theo truyền thống này sẽ oán giận ông trời, vì số phận họ là do trời sắp đặt.

Nếu có ông trời sắp đặt mọi việc như vậy, tại sao ông trời không đem phước lành đến cho con người, để cho thế gian này khổ nhiều hơn vui, người nghèo khổ, bất hạnh nhiều hơn người giàu có hạnh phúc?

Trên thì oán trời, dưới đổ thừa cho xã hội bất công, bởi khi nghèo khổ, túng quẩn, tâm trí, đầu óc thiếu minh mẫn, sáng suốt, lại không chịu suy tư cho chín chắn, nên oán trách lung tung

Có khi oán trách người thân, gặp chuyện không vui ở đâu, về nhà trút đổ nỗi buồn cho cha mẹ, cho vợ con, lỡ khi làm điều phi pháp bị bắt vào tù lại đổ thừa tại gia đình, vợ con mà tôi phải làm như vậy. Hoặc khi thất nghiệp không tìm được công ăn việc làm thì oán trách thầy bạn sao không mở lòng giúp đỡ.

Người nghèo khổ thường không biết tu tạo phước đức, bởi phải vất vả mà cũng chỉ kiếm tiền sống qua ngày, do đó đã nghèo lại càng nghèo thêm. Họ không có điều kiện hay cơ hội giúp đỡ ai, không tích lũy được phước báu, vì vậyoán hận chứa chất trong lòng mỗi ngày càng nhiều thêm.

Vì vậy, trách nhiệm của xã hội là phải quan tâm đến vấn đề của người nghèo nhiều hơn, không những giúp đỡ họ về phương diện vật chất mà còn phải chăm lo đời sống tinh thần để họ vơi đi những khổ đau nội kết chất chứa trong lòng. Tốt nhất cho việc làm này, xã hội nên kết hợp với đạo Phật giúp họ hiểu được nguyên nhân sâu xa của bất hạnh nghèo khổ.

Chúng ta có nhiều cách để tạo ra phước đức, về mặt xã hội, ta thực hiện đắp đường, xây cầu, khoan giếng, trồng cây, tạo công viên, hoa viên, lập ra các nơi khám chữa bệnh miễn phí, bệnh viện từ thiện... Còn đối với đạo Phật cần có những trách nhiệm cao hơn, ngoài việc giúp đỡ vật chất còn phải hỗ trợ tinh thần để họ phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, bế tắc cuộc đời.

Tại các chùa hay các cấp của giáo hội cần lập ra các đoàn từ thiện đi đến vùng sâu, vùng xa thăm hỏi, động viên, trợ duyên cho họ bằng những món quà vật chất với tấm lòng của ít lòng nhiều, khuyến tấn họ đến chùa tu tập, nương theo lời Phật dạy, hướng dẫn họ biết cách gieo trồng phước báu, không phải chờ đến khi giàu có mới làm phước được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6316)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8557)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7480)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6385)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5978)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4766)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5895)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6140)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6617)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5965)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7088)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6692)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4828)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4961)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7744)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9849)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5353)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6449)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5456)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5873)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5715)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7078)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6306)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10685)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6695)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6205)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6154)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6523)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5754)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7578)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6269)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9672)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4076)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6403)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4783)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5347)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5300)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5834)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6805)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5565)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4514)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5347)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5015)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6884)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4629)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7230)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant