Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cúng dường chứng quả A-na-hàm

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14067)
Cúng dường chứng quả A-na-hàm


CÚNG DƯỜNG CHỨNG QUẢ A-NA-HÀM


Thời Phật tại thế, có một bà nhà giàu hết lòng tin kính Tam Bảo, bà luôn ứng dụng, hành trì, tu tập những lời Phật dạy và thường hoan hỷ phát tâm cúng dường chư Tăng.

Điều mầu nhiệm đặc biệt là bà phát tâm ủng hộ cúng dường cho người nào thì người đó ngộ đạo. Đây là do túc duyên gieo trồng phước đức nhiều đời, nhiều kiếp của bà.

Tiếng lành đồn xa, một số thầy nghe danh, muốn đến thử xem mình có duyên lành với vị thí chủ này không. Nhân mùa an cư kiết hạ, quý thầy bàn nhau đến kiểm nghiệm lời đồn đãi ấy có đúng không và cũng để thăng tiến trong mùa an cư kiết hạ này.

Được tin quí thầy đến trú xứ của mình tu tập, bà già hoan hỷ cúng dường những gì cần thiết trong thời gian chư Tăng tu tập. Chỗ ở của bà khá rộng rãi, rừng cây xum xuê, thuận lợi cho việc tu tập và hành thiền.

Bà thưa: “Quý thầy cứ yên tâm ở đây tu tập, không phải đi khất thực, con sẽ cung cấp đầy đủ các nhu cầu cần thiết, con chỉ mong sao quí thầy mau chứng thành đạo quả.

Khoảng ba mươi thầy, ai nấy cũng thuận hỷ lời thỉnh cầu của bà, ở lại tu hành miên mật, tinh tấn. Tuy nhiều thầy cùng trú, nhưng khu vườn vẫn im phăng phắc làm cho bà già đâm ra nghi ngờ, tại sao không nghe nói chuyện hay là quí thầy giận nhau? Tại đây, các thầy đều được chứng quả trong một thời gian ngắn. Thời ấy, nhờ sự trực tiếp chỉ dạy của Như Lai Thế Tôn, đa số các Tỳ-kheo tu hành đều mau chứng đạo.

Tại sao trong thời Phật hiền tiền, các đệ tử của Ngài tu mau chứng ngộ đạo quả như vậy? Đây là điều dễ hiểu thôi, bởi đức Phật biết rõ tâm niệm của mỗi Tỳ-kheo nên Ngài chỉ dạy mỗi người một phương pháp thích hợp với năng lực, nên các vị tu hành mau chứng đạo.

Bên cạnh, giới luật của chư Tăng hỗ trợ rất tích cực cho sự chứng đắc như đức Phật không cho giữ tiền bạc của cải tài sản nên chư Tăng dễ dàng buông xả hoặc không cho trụ xứ một chỗ lâu dài để không bị bám víu vào sở hữu tài sản, do đó các vị tu hành mau thăng tiến.

Ngày nay, do hoàn cảnh xã hội và phong tục, tập quán không cho phép Tăng, Ni sống như thời xưa được, chư Tăng phải có đủ điều kiện để tu và hướng dẫn Phật tử tu hành, phải có chỗ ở ổn định… Vì vậy, chư Tăng dễ bám víu vào sở hữu tài sản và phải hòa nhập vào cộng đồng xã hội để làm lợi ích chúng sinh. Họ học hiểu tới đâu hướng dẫn Phật tử tu theo tới đó, nên mức độ tu chứng của chư Tăng ngày nay rất hạn chế.

Song, Phật pháp không cố định, cứng ngắt, mà phải tùy thời, tùy duyên hòa nhập vào xã hội, miễn sao người tu sống tốt đạo, đẹp đời là đã có lợi lạc rồi.

Đạo Phật có mặt trên thế gian là vì hạnh phúc của con người, do đó người tu trong thời hiện đại phải khó khăn, chật vật hơn thời xưa, nhưng không vì vậychúng ta cho phép mình lơ là tu tập, mà mỗi người phải cố gắng hơn lên để không bị lui sụt trong hành trì.

Hơn nữa, thời Phật tại thế, không những đạo Phật mà các giáo phái khác cũng không chấp nhận các việc kinh doanh, buôn bán, sản xuất trong khi hành đạo, mà chỉ có việc đi khất thực để tùy duyên hóa độ chúng sanh mà thôi.

Thời nay không có được phúc duyên như thế, nên chúng ta càng cố gắng tu hành nhiều hơn miễn là ta không thối chí nản lòng.

Trở lại sự việc bà già nghi ngờ, hoang mang tại sao chư Tăng ở đông như vậy mà không nghe tiếng ồn. Bà gặp một Tỳ-kheo trong hội chúng để hỏi cho rõ vấn đề.

Và vị Tỳ-kheo ấy đã giải thích cho bà rõ: Trước khi chúng tôi đến đây, đã được Như Lai Thế Tôn chỉ dạy cho mỗi người một phương pháp tu hànhchúng tôi phát nguyện: trong mùa an cư này, mỗi chúng tôi phải tu hành cho đạt Thánh quả hết để đáp đền ơn Phật và đàn-na tín thí. Vì vậy, chúng tôi thống nhất với nhau, mỗi người ở một góc riêng để tu tập và hành thiền. Trong đoàn, thầy nào tu hành đạt kết quả sớm thì có trách nhiệm hướng dẫn các thầy khác trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Nghe thầy Tỳ-kheo trình bày như thế, trong lòng bà rất hoan hỷ. Từ trước đến naychưa bao giờ được nghe, thấy những điều như thế. Do đó bà khao khát muốn được biết các thầy đang tu pháp gì? Và bà có thể tu theo được không?

Nhờ túc duyên nhiều đời, bà được một thầy Tỳ-kheo hướng dẫn cách thức tu hành, bà siêng năng, tinh tấn trong 7 ngày liền chứng được quả vị A-na-hàm. Quả vị này là một trong bốn quả Thánh Thanh văn. Bà được chứng quả trước quý thầy, có Tha tâm thông, biết được tâm niệm, ý nghĩ của quý thầy muốn gì, cần gì, bà cúng dường chu cấp cho quý thầy đầy đủ theo nhu cầu. Vị Tăng nào vừa bị bệnh, bà liền đem thuốc tới, vị nào khởi niệm muốn ăn món gì bà đem món ấy đến. Bà cúng dường quý thầy chu đáo, đúng mức như sở nguyện. Trong mùa an cư kiết hạ năm ấy, dưới sự bảo trợ, cúng dường của bà, hết thảy quí thầy đều được chứng đắc đạo quả.

Chư tăng khắp nơi nghe tin, ai nấy đều tán thán công đức cúng dườngtu tập của quý thầy trong mùa an cư kiết hạ này. Đó là niềm vui duy nhất mà bà mong muốn và cũng để đền ơn quý thầy đã độ cho bà chứng quả thứ ba A-na-hàm.

Còn quý thầy tu tập trong khu vườn, ai nấy đều rất ngạc nhiên khi thấy mọi nhu cầu của mình mong muốn đều được bà cúng dường đầy đủ. Từ đó, quý thầy không dám khởi niệm lăng xăng, sợ bà hay biết được sẽ chê cười. Do đó quí thầy càng nỗ lực siêng năng, tinh cần tu tập, nên tất cả quý thầy đều chứng quả vị A-la-hán.

Biết được sự thành tâm của bà giànhân duyên tốt đẹp của chư vị thánh đệ tử, Thế Tôn tán thán công đức tu hành của quý thầy và không quên khen ngợi bà già thiện tri thức kia. Chúng ta thấy rõ ràng ngày xưa chư Tỳ kheo tu hành mau chứng đạo nhờ gặp bậc minh sư chân chánh, thầy lành bạn tốt lại được phương tiện hỗ trợ, vật thực đầy đủ, quí thầy khỏi cần lo lắng cưu mang nên tất cả đều tập trung vào đề mục để chuyên tu nên mau chứng đạo.

Một hôm, có thầy Tỳ-kheo nghe chuyện, đến thỉnh cầu đức Phật cho phép đến khu vườn để được bà già chu cấp đúng như ý nguyện, Như Lai Thế Tôn chấp thuận.

Trên đường đi đến chỗ bà lão, vị Tỳ-kheo khởi niệm muốn bà lão chuẩn bị cho mình một giường tòa để nghỉ ngơi, cho ăn những món ưa thích. Biết được ý niệm ấy, bà già ra đón thầy tận cổng ngoài. Bà thưa: “Xin mời Đại đức vào trong nghỉ ngơi, giường tòa con đã đã chuẩn bị sẵn rồi.”

 Thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên đến sững người, tại sao mình mới nghĩ như vậy mà bà lão đã biết? Để xem các bữa ăn của mình sắp tới bà lão sắm soạn thế nào? Quả không sai, những gì thầy mong muốn đều được bà lo đầy đủ không thiếu món gì.

Lúc đầu thầy Tỳ-kheo rất hoan hỷ trong lòng, nhưng nghĩ lại, thầy đâm ra lo sợ. Bởi mình vừa muốn ăn món gì, cần vật dụng nào, bà già liền cho người mang tới ngay. Vậy mình tu mà còn khởi lòng tham cầu nhiều quá. Như vậy ở đây mình nghĩ gì bà già này đều biết hết, thầy Tỳ-kheo cảm thấy bất an trong lòng, lo sợ đủ điều, thầy xin cảm ơn bà và lặng lẽ rút lui.

Trên đường trở lại Tịnh xá, thầy Tỳ-kheo gặp đức PhậtTăng đoàn đang khất thực. Thầy Tỳ-kheo liền tiến đến trước mặt Thế Tôn quỳ xuống đảnh lễ và thưa: “Bạch Thế Tôn, nay con trở lại Tịnh xá của mình tu hành, bởi ở chỗ bà lão, con sợ mình suy nghĩ bậy bạ nhiều quá làm mất uy tín của Tăng đoàn, nên con không dám ở lại trú xứ của bà ấy nữa.”

Được nhân duyên tốt, đức Phật khuyên thầy trở lại chỗ bà già tu tập, bởi nơi đó sẽ cho thầy cơ hội phát triển công năng đạo hạnh tốt nhất. Vâng lời đức Phật, thầy trở lại khu vườn bà lão, lần này thầy không dám lơ là, hễ khi vừa có một tạp niệm dấy lên, thầy liền buông xả không bám víu, cứ thế, thầy miên mật chánh niệm trong từng phút giây không gián đoạn. Nhờ vậy chẳng bao lâu thầy chứng quả A-la-hán.

Qua câu chuyện trên, cho ta một bài học quý báu của cuộc đời. Việc tu tập ai cũng có phần, chỉ có điều là ta có quyết tâm tu hành đến nơi đến chốn hay không? Việc tu hành không chỉ dành riêng cho người xuất gia mà người tại gia cũng có phần. Người tại gia, nhờ có phước đức, không phải bận rộn lo ăn, lo mặc, nên việc tu hành được thuận tiện, dễ dàng như bà già kia. Còn người xuất gia, không phải lo lắng, mọi việc đều có người sắp xếp giúp đỡ, việc còn lại là ta có dám can đảm buông bỏ hết mọi vọng niệm hay không? Vì vậy, việc tu hành chứng quả không dành riêng cho người xuất gia mà người tại gia cũng có phần.

Người xuất gia cần phải nhớ rằng, hằng ngày nhờ thọ dụng của đàn-na tín thí tứ sự cúng dường, phải mang nợ nần chồng chất, nếu không cố gắng tu hành thì tự chuốc họa vào thân. Ngày nay có một số Tăng, Ni vì sợ thọ dụng của đàn-na tín thítu tập không đạt kết quả phải mang tội, nên họ tự thân kiếm sống bằng các hình thức thế gian như gieo trồng hoa màu, sản xuất dụng cụ tiêu dùng, thực phẩm chay, hay mở quày bán kinh sách, văn hóa phẩm v.v…Những hình thức tự tìm cách thức nuôi sống bản thân để tu hành là rất tốt, nếu mình không say đắm vào công việc mà xao nhãng hành trì, tu tập. Ngược lại, người thọ nhận phẩm vật cúng dường của đàn-na tín thí là cách thức lúc nào cũng thấy mình được răn nhắc phải tu tập, hành trì. Người quyết chí tu thân, lập hạnh thì không sợ mang tội vì thọ nhận phẩm vật cúng dường.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 55172)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14235)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13283)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14239)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15588)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13280)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19438)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24691)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15795)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37882)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13506)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13131)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17210)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13234)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17436)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21730)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13284)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14455)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12907)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13712)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28683)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23459)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34472)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28923)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32236)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11344)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12047)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26353)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17428)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14556)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34601)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13158)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12302)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13438)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40577)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 27006)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14506)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13300)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13499)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12591)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13207)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12344)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11825)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12611)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17688)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12252)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12800)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18473)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14327)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13029)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11343)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12218)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13526)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10897)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11132)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10338)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28979)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25363)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26908)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25835)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant