Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Da Xá

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 17394)
Tôn giả Da Xá

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT 
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư - Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
biên soạn phần Phụ Lục - Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Tôn giả DA XÁ

(Yasa)(Người thanh niên đầu tiên xuất gia theo Phật và trở thành vị thánh tăng thứ sáu của tăng đoàn)

 

Sau khi hóa độ cho năm vị tì kheo nhóm Kiều Trần Như đều chứng được quả thánh, đức Phật vẫn cư trú tại vườn Lộc Uyển để tiếp tục hướng dẫn họ cho thật vững vàng trong việc hành đạo.

Một buổi sáng sớm, khi đang đi thiền hành dọc theo bờ sông, đức Phật bỗng thấy một chàng thanh niên đang từ xa đi lại. Ngài liền ngồi xuống trên một tảng đá. Chàng thanh niên có vẻ như đang hốt hoảng, tâm thần bất định. Chàng đã tới gần tảng đá Phật đang ngồi mà vẫn không thấy Phật, miệng cứ lẩm bẩm: “Thật là đáng sợ! Thật là ghê tởm!”. Ngài liền lên tiếng: “Nơi đây không có gì đáng sợ. Nơi đây không có gì đáng ghê tởm. Hỡi này chàng trai trẻ! Hãy đến đây! Hãy ngồi xuống dây, Như Lai sẽ giảng giáo pháp cho con.

Chàng thanh niên giật mình đứng lại, định thần nhìn kĩ, thì thấy Phật đang ngồi trên tảng đá, dáng vẻ thật thảnh thơi, ung dung, trầm tĩnh. Bị chinh phục hoàn toàn bởi giọng nói và dáng vẻ ấy của Ngài, chàng liền cởi bỏ giày ra, đến trước Phật, lạy xuống và ngồi lại một bên. Hỏi ra thì chàng chính là Da Xá, con của một vị trưởng giàu có vào bậc nhất nhì ở thành Ba La Nại (Varanasi - Baranasi). Da Xá đã sinh ra và lớn lên trong khung cảnh giàu sang, đầy xa hoa nhung lụa. Cha mẹ cưng chiều, đã cấp cho chàng các phương tiện cao sang để hưởng một cuộc sống đầy đủ những thú vui vật chất. Bỗng một hôm, sau một buổi tối vui chơi thỏa thích cùng bạn bè, có ăn uống, đàn địch, múa hát, gái đẹp, chàng đã thức dậy thật sớm vào lúc nửa khuya. Nhìn thấy cảnh tượng các vũ nữ, các nàng hầu thiếp của chàng nằm ngủ ngổn ngang bừa bãi, phơi bày những chân tướng không đẹp đẽ gì của họ, chàng bỗng thấy lợm giọng. Chàng thấy ghê tởm cuộc sống trác táng của chàng bấy lâu. Chàng cảm thấy sợ sệt những cám dỗ của vật chất hèn hạ. Nhà cao cửa rộng, châu báu bạc tiền, gái đẹp hầu xinh, đối với chàng lúc bấy giờ, chỉ là những hình ảnh xấu xa, những hang tối buồn thảm, những quỉ ma phá hoại. Chàng nhờm chán, không còn cảm thấy lạc thú gì để tiếp tục sống trong khung cảnh ấy nữa. Bởi vậy, tuy trời vẫn còn tối đất, chàng đã khoác áo bỏ nhà trốn đi. Với tâm trạng ghê tởm, kinh sợ và đau khổ, chàng cứ bước đi mà không định sẽ đi về đâu. Một cách tình cờ, chàng đã đi về hướng vườn Lộc Uyển, và được gặp Phật.

Biết rõ tâm ý của Da Xá, Phật đã giảng cho chàng nghe về giới hạnh, về những tai hại của năm dục, về phước đức cao quí của sự xuất gia ... Dần dần Ngài đạy đến giáo lí Bốn Sự Thật. Da Xá vốn là một chàng trai thông minh, tâm ý lại đang có sự thay đổi thuận tiện, nên chàng đã tiếp thu một cách mau lẹ và trọn vẹn tất cả những lời Phật dạy. Chàng cảm thấy sung sướng và phấn khởi vô cùng; trái ngược hẳn với tâm trạng sầu khổ, tuyệt vọng của chàng vừa mới trước đó. Chàng liền quì xuống dưới chân Phật, và xin làm đệ tử xuất gia của Ngài. Đức Phật chấp thuận, giới thiệu chàng với năm vị tì kheo đệ tử của Ngài, rồi giao chàng cho tôn giả Kiều Trần Như để xuống tóc, khóac y và chỉ dạy cho nếp sống căn bản của đời sống xuất gia.

Chiều hôm đó, khi thân phụ của Da Xá đi tìm con, đến vườn Lộc Uyển gặp Phật, cũng được Phật hóa độ. Lúc đó Da Xá đứng hầu sau lưng Phật, nghe Phật giảng pháp cho thân phụ, tức thì, Da Xá chứng quả A la hán; trở thành vị đệ tử tì kheo thứ sáu chứng quả thánh của Phật từ sau ngày Ngài thành đạo.

Tin Da Xá xuất gia theo Phật được loan truyền mau chóng đến các bạn hữu. Một hôm, bốn người bạn thân nhất của tôn giả tìm đến vườn Lộc Uyển thăm hỏi, và tỏ ý muốn noi gương tôn giả. Tôn giả hướng dẫn các bạn đến yết kiến Phật. Cả bốn chàng thanh niên đều được Phật thu nhận cho xuất gia. Sau khi nghe pháp, vả bốn vị đều chứng quả thánh. Vậy là, vào lúc ấy, tăng đoàn đã có mười vị A la hán.

Bạn bè của tôn giả Da Xá còn có đến hơn trăm người, đều là con cháu của các gia đình quyền quí, danh vọng ở trong thành phố, đều được mọi người kính trọng. Khi nghe tin Da Xá và bốn người bạn thân nhất của tôn giả đã theo Phật xuất gia, họ cũng rủ nhau tiến về vườn Lộc Uyển để thăm hỏi. Tôn giả Da Xá đã đưa tất cả các bạn vào yết kiến Phật. Sau khi nghe Phật giảng pháp, năm mươi trong số hơn một trăm chàng thanh niên ấy, tự thấy không có gì vướng bận, đã xin Phật cho xuất gia. Qua thời gian tu tập tinh chuyên, cả năm mươi người đều chứng A la hán.

Tới đây, sau hai tháng từ khi Phật thành đạo, tăng đoàn của Phật đã tăng lên đến sáu mươi vị tì kheo. Sau một thời gian tu tập cần mẫn, các ngài đều đạt đến trí tuệ siêu việt, vững chải trên khả năng hóa đạo, và tự tại trên con đường giải thoát. Đức Phật liền phái các ngài, như là những vị sứ giả đầu tiên của Ngài, bắt đầu lên đường hành hóa, gieo trồng hạt giống bồ đề ở khắp bốn phương.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3186)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3196)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3581)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4099)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5316)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2721)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6232)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3131)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3189)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3398)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3318)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3382)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4644)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2793)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5312)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3980)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3922)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3295)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4218)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5129)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3620)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6866)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 4055)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3295)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3181)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 3048)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5955)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4722)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3548)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2946)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3366)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4508)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5809)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6727)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3804)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4616)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4695)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 4053)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3479)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4750)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6155)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5916)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3713)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4763)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4533)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4596)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4357)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4682)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8291)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 4010)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5805)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5301)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6930)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6280)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6090)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5909)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6387)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6860)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5048)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5658)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant