Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sóng Lành Mùa Phật Đản

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11471)
Sóng Lành Mùa Phật Đản

kinh_mung_phat_danMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần – grand tsunami – vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật. Những đàn kiến cỏ thầm lặng dắt díu nhau lên núi cao. Những loài dế đất, bọ cát tản mạn về đâu mà càng đêm càng vắng tiếng... Những loài vật càng nhẹ, ăn ít, không tham tàn với đồng loại càng vắng bóng nhiều hơn trong những ngày gần kề cơn đại họa.

 Hiện tượng loài vật xôn xao, sợ hãi, lánh nạn khỏi vùng đất tai ương nhiều ngày trước khi cơn sóng thần ập đến đất Nhật, làm trên hai vạn người thiệt mạng, cũng đuợc những người dân sống sót tại địa phương quan sátghi nhận.

Trong vũ trụmuôn vàn hiện tượng chằng chịt và phát sóng liên hồi. Không có gì tình cờ mà cũng chẳng có gì tiền định vì đó là dòng chảy tự nhiên, tan hợp triền miên mang tính khách quan và cũng chẳng có cái “ngã” nào chủ xướng phát sinh hay ngự trị cả. Loài vật có căn cơ riêng biệt bắt được sớm hơn hay có độ cảm nhận tinh vi và bén nhạy hơn loài người về những làn sóng của dòng năng lượng vũ trụ đang trôi chảycon người không thể – hay chưa – bắt được. Con người phải nhờ những con mắt thần “thiên lý nhãn” của phương tiện khoa học, kỹ thuật mới theo kịp loài chim báo bão, biết trước sự vận hành của thời tiết; nhưng vẫn còn mịt mờ với bao nhiêu biến động thường xuyên trong lòng đất và ngoài vũ trụ. Ai biết trước được bão tố, cuồng lưu, sóng thần, động đất sẽ đến khi nào. Trước thiên nhiên, con người nhỏ bé vừa nông nổi tự hào về những tiến bộ của khoa học trong thế kỷ 20, bỗng chững lại trước trước những biến dịch không lường từ bên ngoài vũ trụCon người cầm vũ khí nguyên tử trong tay mà run sợ về sự mong manh của mình trước những cơn bão từ trường, những lối vận hành khốc liệt của các thiên thể, những sự va chạm của thiên hà mà trái đất này còn bé mọn và mau tan hơn cả một hạt bụi trần.

 Những người ở riêng trong lĩnh vực tâm linh và khoa học càng ngày càng gần nhau hơn qua dòng tâm cảm và qua kiến thức, suy tư về một khái niệm truyền thống dường như bí ẩn nhưng càng ngày càng hiện ra rõ mặt. Đó là ngưồn năng lượng tự nhiênthiêng liêng trong đời sống vũ trụ và trên hành tinh này. Nguồn năng lượng tuy không hình, không dáng, rỗng lặng nhưng lại bao la, bát ngát, bao trùm hết thảy. Nó phi thời gian, phi không gian, phi hình tướng nhưng ở đâu, nơi đâu và thời nào cũng có. Nó thu liễm và phát tiết ra thành những làn sóng vô hình. Khi những cơn sóng có cùng tần số thì bắt gặp nhau, giao thoa với nhau để tạo thành một loại năng lượng mới tạm thời hay dài lâu: Sóng lành kết tụ thành năng lượng lành đầy vui tươi, nhẹ nhàng, an lạcgiải thoát. Sóng dữ kết tụ thành năng lượng dữ đầy cuồng nộ, tàn phá và đổ vỡ tang thương. Mỗi sinh vật là một đối thể cô đơn nhưng thường tại và năng động để thu và phát năng lượng qua những tần số mang sóng lành hay dữ. Con người vừa cô đơn, vừa “độc tôn” vì ai ăn nấy no, ai dò nấy biết. Những thần thánh và những nhà tiên tri là những “trạm” thu và phát sóng có tần số diệu kỳ chứ không phải là nguyên nhân tạo sóng. Gần gũi với các bậc thiện lành chân chính, bất cứ trong lĩnh vực nào, con người cũng sẽ được lợi lạc thu nhiễm được định lực của những lượn sóng lành qua tâm, qua trí.

 Đức Phật xuống đời mang cho đời một nguồn an lạc. Sóng lành mùa Phật Đản từ mấy nghìn năm trước không biết có khác chi mấy nghìn năm sau. Nhưng con người bỗng thấy gần nhau hơn và nhìn vào đất trời lộng gió sâu hơn qua hương sen trên hồ và tiếng chuông chùa trầm ngân rơi dần vào tịch lặng.

 Mùa Phật Đản đầu tiên – mà thế hệ Chiến Tranh Việt Nam 4x & 5x chúng tôi được thấy – trên quê tôi đang về có sớm quá hay muộn màng thì chỉ có những mùa sen trên Bàu Lộ hay dưới những ao hồ mới biết. Đó là ngày 8 tháng Tư ta năm 1955, khi tôi 10 tuổi. Những xóm nghèo trên quê tôi đón hòa bình vui như chim ca nắng mới. Chút yên ổn vừa hồi sinh sau ngày hòa bình trở lại với hiệp định “Giơ neo” chia đôi đất nước năm 1954.

 Trong ký ức của tuổi thơ, tôi chỉ còn nhớ cái nền xi măng đầy gạch ngói vụn còn sót lại của ngôi chùa Làng bị bom đạn tàn phá. Người ta làm một cái rạp bằng tranh tre và lợp lá cau. Cũng có “lễ đài” dựng lên. Rơm rạ cột thành bó vuông chồng lên nhau làm nền và bao quanh bằng những tấm cót đan bằng tre, nứa màu trắng đục. Lũ trẻ trong làng thích nhất là cái tượng “Phật mới sinh” to bằng hai người thường, vừa được những nhà... nghệ sĩ nông dân trong làng vẽ lên trên tấm cót có ba cây tre bắt chéo làm giá đỡ đằng sau. Tôi được nhìn tận mắt mấy chú trong làng dùng mực xạ màu đen, củ nghệ màu vàng, hột mồng tơi màu tím, bao nhang dầm trong nước màu đỏ và mực xanh bình dân học vụ để vẽ tượng Phật. Lần đầu, tôi được nhìn “ôn Phật” mới sinh, một tay giơ lên trời, một tay chỉ xuống đất, môi đỏ chót, miệng cười toe... vui chi lạ! Đã 56 năm rồi mà tôi vẫn chưa quên lời bình luận của mấy bác trưởng tộc trong làng về bức tượng Phật Đản Sinh đầu tiên trên quê tôi, rằng: “Mấy chú quen đi cày, mạnh tay vẽ ông Phật mới sinh mà mặt mũi già khằn như ông cụ già 5, 6 mươi tuổi!” Ấy thế mà không sao cả. Nghe đâu lễ đài làng Liễu Hạ chúng tôi vẫn được chấm hạng nhì trong toàn xã Hương Cần năm đó. “Kính lão ngoan đồng cầu đắc thọ” chăng?!

 Sớm mồng 8 tháng Tư ta là ngày Phật Đản. Mỗi làng là một đơn vị rước Phật về tập trung trên đồng lúa mới gặt. Có một lễ đài chung cho cả 7 làng và 3 phe trong xã. Cả 10 đơn vị sẽ cử hành chung một lễ Phật Đản chính thức. Thuở đó, chưa có Gia Đình Phật Tử trong địa phương. Sắp nhỏ có cha mẹ sinh hoạt ở chùa thì được xếp vào hàng “thiếu nhi Phật tử”. Trong mùa Phật Đản đầu tiên sau ngày hòa bình trở lại năm ấy, dân làng chúng tôi vốn đã chịu nhiều tang thương và đau khổ của chiến tranh suốt mấy mươi năm, nên ai cũng muốn gần gũi một chỗ dựa tinh thần an lành và vô sự. Hình ảnh ông Phật trầm tư muôn thuở và lời kinh từ ái, thuận hòa của đạo Phật đến với dân làng như những giọt nước mát rưới trên vùng khát vọng khô héo đã bao năm qua. Bởi vậy, lễ rước Phật trong ngày lễ Phật Đản nầy không ai chủ xướng vận động kêu gọi nhưng lại trở thành một ngày lễ hội thân thiết với dân làng, những người sau cuộc chiến đang thiết tha tìm cầu nẻo thiện. 

Đám rước mộc mạc và đơn sơ nhưng ai cũng nếm được chút hương vị đượm tình khó tả như mùi vị đồng chua nước mặn. Nắng mùa Xuân trên con đường Nhứt càng lên cao, đám rước càng dài ra. Tự phát. Những Thiếu nhi Phật tử chúng tôi được xếp hàng hai, mỗi đứa cầm một cây đèn ú, đi trước, ngay sau giá tượng “ôn Phật” có hai lọng che. Tiếp theo có kiệu hương án và hai giá trống chiêng; mỗi giá do hai người gánh. Đám thanh niên trong làng thay phiên nhau gánh từ chùa Làng cho đến địa điểm hành lễ chung, đi bộ chừng một giờ. Tất cả giàn giá là bộ đồ gánh đám ma của Làng được mượn tạm và trang trí, chế biến lại theo “kiểu Phật” với nhiều chữ vạn, hoa sen và những đường hoa văn cắt xén đơn sơ, thoáng nét vụng về nhưng đầy... hỷ xã. Chúng tôi đã được tập dượt tối hôm qua tới khuya. Đám bé quê lần đầu được người lớn công nhận, cho tham gia một vai trò lễ nghi trong một đám rước nên đứa nào đứa nấy đều sung sướnghãnh diện như cậu ấm về làng. Bởi thế, đứa nào cũng mở hết khẩu độ bình sanh của tuổi hoa niên để vừa đi vừa hát vang trời bài “Vui Mừng Gặp...” theo điệu đăng đàn cung: “Vui mừng gặp ngày nay, mồng 8 tháng tư. Ngày khánh tiết, Phật Thích Ca ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ trong đời khổ, vận đức từ bi...”

 Tiếng hát vang lừng của tuổi thơ hòa với tiếng chuông trống trầm hùng và lời niệm Phật của tuổi già tạo nên một đám rước rỡ ràng đầy kính ngưỡng là “dấu Phật” in bóng trên đường quê sau ngày hòa bình trở lạiPhật Đản, không phải chỉ có một ngày mà là một mùa kể từ khi đám sen trong hồ nhú lên và nứt ra từng lá mới cho đến những ngày các chùa lắng lòng trong ba tháng an cư kiết hạ của chư Tăng, Ni và trãi dài cho đến tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân.

Rồi thời gian đi qua, ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4 theo Trung Quốc thay đổi. Bài “Vui mừng gặp ngày nay mồng 8 tháng Tư...” không còn hát nữa khi ngày Phật Đản đổi sang Rằm tháng Tư theo truyền thống chung của Phật giáo Thế giới chọn ngày trăng tròn tháng Năm làm ngày Phật Đản (Vesàkha, Vesak). Nói đúng hơn là Mùa Phật Đản vì thời điểm được chọn theo Phật giáo của mỗi nước không giống nhau, thống nhất trong cùng một ngày như ngày Chúa Giáng Sinh – Noel, Christmas... 25 tháng Chạp. Ngày 15 tháng 12 năm 1999, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã chọn một ngày Văn Hóa Phật Giáo gọi là “Ngày Tam Hợp Thiêng Liêng Phật Đản” (The Thrice–Sacred Day of Vesak). Đây là một thời điểm biểu tượng bao gồm cả ngày đản sinh, ngày thành đạo và ngày nhập diệt của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong một thập niên qua, Phật giáo thế giới đã có ngày lễ hội Tam Hợp Phật Đản hàng năm chung cho Phật giáo toàn thế giới, hay Phật giáo của nhiều nước trong từng vùng địa lý thích ứng. Mùa Phật Đản 2600, tức là 2011 theo lịch Công nguyên, Vesak nhằm vào ngày 17 tháng Năm. Lễ hội Phật Đản Vesak quốc tế năm nay sẽ được tổ chức tại thủ đô Bangkok của Thái Lan từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 5. Tuy nhiên Phật giáo của mỗi nước như Tích Lan, Miến Điện, Trung Hoa, Đài Loan, Nhật, Lào, Cam Bốt, Mã Lai, Việt Nam, Singapore, Úc... sẽ tổ chứa Vesak riêng. Tại các nước Âu, Mỹ thì Vesak được tổ chức theo từng vùng. Như ở miền Bắc California, lễ hội Vesak 2011 sẽ được tổ chức tại chùa Kim Quang, thành phố Sacramento, trong hai ngày 28 và 29 tháng 5 với sự tham dự của các phái đoàn Phật giáo thuộc nhiều nước đang sinh hoạt trong vùng.

 Dẫu cho đứng ở vùng đất hay thời điểm nào thì sự kết hợp giữa đời sống thể lý và tâm linh vẫn là yếu tính của con ngườiĐạo Phật không đem Đạo từ ngoài để gieo vào đời sống tâm linh của con ngườiĐạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình.

 Có những tâm hồn như “hóa Phật” khi tiếp cận với những năng lượng an lành trong mùa Phật Đản. Người Việt chỉ mới đạt tới phần thẩm mỹ của tâm hồn khi thu nhiếp sóng lành mùa Phật Đản. Nếp cũ tâm linhvăn hóa được gọi là “đạo Thờ Cúng Ông Bà” của người Việt mới chỉ ở mức độ là phần cảm tính. Khái niệm tôn giáo dân gian của người Việt chưa rõ ràng và lan tỏa trong đời sống văn hóa xã hội như tôn giáo dân gian Thần Đạo (Shinto) của người Nhật BảnThần Đạo không có kinh điển nhưng có tới 800 huyền thoại và chuyện thần thoại để làm căn bản cho thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc họ. Trong khi nếp tâm linh dân gian truyền thống của người Việt chúng ta vẫn còn mờ nhạt như những viễn mơ đầy sương khói.

Khác với hàng Tăng lữ Việt Nam xuất giaxuất thế, các thiền sư Nhật Bản đồng thời cũng là những đạo sĩ Thần Đạo nhập thế. Từ thế kỷ thứ 6, đạo Phật đã hòa quyện với Thần Đạo để hình thành một dân tộc tính vừa mạnh mẽ, vừa nhu hòa giúp con người vươn lên trong tâm bình và trí lạc. Trong thiên tai động đất và sóng thần kinh hoàng kéo theo hệ lụy vỡ lò nguyên tử xảy đến cho dân Nhật trong tháng 3 - 2011 vừa qua đã làm cho toàn thế giới sững sờ và kinh ngạc trước phản ứng đầy hy sinh, chịu đựng quá kham nhẫnchánh định của một dân tộc anh hùng. Nhật có thể không bằng các nước Âu Mỹ hàng đầu về khoa học kỹ thuật. Nhưng trình độ dân trí, khí phách kiên cường và lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu thiên nhiêncon người của dân tộc Nhật biểu hiện trong cảnh tai ương nạn khổ của đất nước họ vừa qua, rõ ràng là chưa có nước nào sánh kịp trong một hoàn cảnh tương tựCộng đồng thế giới ngưỡng mộ phong cách trầm tĩnh tự điều phục, sự dấn thân trong tinh thần kỷ luật cao độ, lòng hy sinh âm thầm không tên tuổi, tình tự dân tộc dâng trào không băng cờ khẩu hiệu của người Nhật.

Một câu hỏi nổi lên tự nhiên là những yếu tố tinh thầnvăn hóa nào đã un đúc nên một dân tộc tính cao đẹp như thế. Có nhiều cách nhìn nhưng tựu trung có 4 hướng chính: Đó là từ phía truyền thông đại chúng, phía doanh nhân và khoa học kỹ thuật, phía chính trị cầm quyền và phía xã hội tôn giáo. Những yếu tố hình thành và chi tiết tạo tác tương ưng cái “tinh thần Nhật Bản” ấy tuy khác nhau nhiều về cách thế, nhưng câu trả lời xương sống mà hầu như mọi phía đều đồng ý là: Dân tộc Nhật Bản từ thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên đã sống và chiến đấu bằng tinh thần Thần Đạo; nhưng cung cách xử thế tiếp vật trầm tĩnh, kham nhẫný chí chịu đựng để sáng suốt vươn lên trong mọi tình huống cay nghiệt nhất đã được un đúc bằng tinh thần Phật Giáo. Dân Nhật có 130 triệu nhưng hơn 100 triệu là tín đồ Thần Đạo Phật Đạo. Sự tĩnh tại của đạo Phật là một sức mạnh tinh thần nội tại. Tôn giáo không khuất bóng trong những suy niệm siêu hình mà thể hiện thành một “tinh thần Nhật Bản” có bản sắc dân tộc đầy dũng cảm, hy sinh, tự chế và tự trọng làm cho thế giới nghiêng mình cảm phục.

Suốt 15 thế kỷ sóng lành của đạo Phật đã thường xuyên có mặt bên cạnh những ngọn sóng thần đầy cuồng nộ – cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – trong dòng lịch sử nhiều thăng trầm của nước Nhật.

 Nhà văn Trần Mộng Tú đã có một đoạn viết rất đẹp về hình ảnhtinh thần Võ sĩ Đạo – Samurai – của Nhật: “Hầu hết những nguyên tắc của Võ Sĩ Đạo đều dựa trên căn bản triết lý của đạo PhậtThần đạo. Thần đạo thiên về khía cạnh tích cực, hướng dẫn con người thăng hoa vật chất, phát huy tối đa sự sáng tạo, xây dựng một xã hội vượt bực bằng tất cả khả năng của mỗi cá nhân. Trong khi đó Phật giáo giúp cho con người nhìn thấy cái phù du của đời sống, cái hư ảo của mất còn. Hai tôn giáo này đã nằm trong máu người dân Nhật. Nên với những phẩm hạnh đó, các Samurai hành xử qua sự thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, đặc biệt tinh thần an nhiên của Phật Giáo Thiền Tông, đơn giản và tĩnh lặng. Họ trở thành những anh hùng đơn giảnbình tĩnh trước mọi tình huống. Samurai tự coi mình mang vẻ đẹp thanh cao và lý tưởng của hoa Anh Đào. Khi nắng xuân ấm áp những nụ hoa Anh Đào đang khép, nở bung ra, nó khoe tất cả những nét đẹp tuyệt vời của từng cánh hoa. Nhưng khi một trận gió, một cơn mưa xuân đến thổi tung cánh hoa lìa cành, nó cũng dâng hiến một trận mưa hoa ngoạn mục trong không gian, để mọi người đứng ngẩn ngơ chiêm ngắm. Sống và chết, hoa Anh Đào cùng khoe vẻ đẹp dù mong manh ngắn ngủi.”

 Từ một vùng quê Việt Nam vô danh sau chiến tranh như làng tôi cho đến điểm nóng trong mắt nhìn thế giới như nước Nhật hôm nay, đạo Phật đã đến và ở lại không hồ nghi, phân biệt. Tánh Phật giữa đời thường có khi nhỏ bé và đơn sơ như một hạt cát: Lành. Có khi cao rộng, thâm sâuvô tâm như suối nguồn hạnh phúc: Xả !

 Năm nay, mùa Phật Đản lại về trong khung cảnh toàn thế giới đang trải qua nhiều biến động chẳng lành. Thiên tai xẩy ra liên miên ở nhiều nơi gieo nhiều tang thương và bể khổ. Nhiệt độ trái đất đang nóng dần kéo theo khả năng hủy diệt môi trường sống. Ngôn ngữ súng đạn thay cho ái ngữ cảm thông thương thảo hòa bình trong quan hệ quốc tế. Chỉ riêng tại xứ Hoa Kỳ nầy, đầu năm ở miền Đông có những đàn chim hàng chục nghìn con đang bay rợp trời bỗng rơi xuống chết đầy đường. Cùng thời gian động đất xảy ra ở Nhật, ở bờ biển phía Tây Nam California, hàng triệu con cá chết đột ngột, xác đóng dày bãi biển tới 30cm mà không hiểu nguyên nhân vì sao. Hiện tại, tin từ Florida cho biết trong vùng vịnh Mexico cực Đông Nam của Mỹ, đang có hàng chục nghìn con cá voi khổng lồ kết thành một vòng tròn chợt biến, chợt hiện chẳng biết vì lí do gì. Người ta lo ngại hiện tượng “chim sa cá... chết” là điềm báo trước chuyện chẳng lành. Cho dẫu đó là những hiện tượng thiên nhiên do sự biến động môi trường sinh thái đang âm ỉ hoặc bừng bừng diễn ra trên địa cầu hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi, nhưng tại sao con người càng văn minh tiến bộ, càng no cơm ấm áo – cứ ngỡ như đang đứng lấp ló ở cửa Thiên Đường, Niết Bàn – lại càng canh cánh nỗi lo bên mình đến thế.

Điều nghịch lý đầy mỉa mai cho khát vọng hòa bình an lạc của con ngườiphương tiện vật lý càng giàu có thì kết quả tinh thần càng nghèo khó. Khoa học kỹ thuật và giao thông vận tải phát triển, những tưởng càng ngày con người càng có điều kiện đến gần nhau hơn. Nhưng thực tế thì lại càng tạo ra mầm đối đầuxung đột nhiều hơn là cảm thông và hóa giải. Môi trường truyền thông đại chúng như báo chí, truyền hình, truyền thanh, mạng lưới vi tính, điện thư, điện thoại cầm tay... ngỡ như giúp con người sống chan hòa, chia sẻ với nhau giữa lòng cuộc đời thì lại càng làm cho những đối tượng hiểu lầm, cô đơnxa cách nhau nhanh chóng hơn.

Phải chăng vì “một dòng nước trong năm bảy dòng nước đục” đang xâm lấn địa cầu nên năng lượng lành càng ngày càng mất. Sóng đời thô nhám quá nên khó bắt được sóng lành co rút lại, ẩn sâu kín trong đáy lòng người khó ngoi lên được. 

Đức Phật ra đời, đem đến cho trần gian một pháp môn vi diệu nhất: Buông xả. Khi tất cả đều trống không và rỗng lặng thì ôm đồm và khư khư nắm giữ gì đây?! Đạo Phật kế thừa đem đến cho người phương thuốc thần diệu nhất: Thêm vui, bớt khổ. Cho đến một ngày chỉ có toàn niềm vui là ngày đắc đạo!

Ngày 31 tháng 3 năm 2011, một người Nhật tên là Masaru Emoto, gởi điện thư cho nhiều người trên thế giới. Anh là một nhà khoa học và cũng là một nghệ sĩ, tự nhận mình là một Người Mang Thông Tin của Nước (Messenger of Water). Trước hết anh chứng minh rằng, công thức về năng lượng lừng danh của nhà bác học Albert Einstein, E=MC², thật sự có nghĩa rằng: Năng lượng = Số người nhân với bình phương của lương tâm. (Energy = Men × Conscience²) Bởi thế theo sự hiểu biết và trải nghiệm của anh trong suốt 20 năm nghiên cứu và làm việc với môi trường Nước thì nước thiên nhiên đã trở thành trong mát hơn khi nó nhận những làn sóng rung động vi tế xuất phát từ tấm lòng lành cầu nguyện của con người, bất luận dẫu cho sóng lành cầu nguyện đó ở cách xa bao nhiêu. Trong hoàn cảnh bi thảm của lò nguyên tử Fukushima bị rò rỉ sau trận động đất tại Nhật, phóng xạ nguyên tử mang khả năng giết người và mọi loài sinh thể đã tìm thấy lan vào trong vùng nước xung quanh. Theo Emoto, sự khôn ngoan của trí tuệ con người chưa đủ cứu nguy khi sóng nước thiên nhiên đã và đang đến hồi cuồng nộ, nhất là dòng nước bị con người đưa vào lò phản ứng nguyên tử để làm dịu lại nguy cơ nóng chảy các thiết bị kích hoạt phản ứng. Cần phải có sóng lành của tâm hồn mới mong góp phần cứu khổ. Anh tha thiết khẩn cầu nhân loại trên toàn thế giới đúng 12:00 giờ trưa hôm nay tại múi giờ của mình, xin lắng lòng cầu nguyện để chuyển tải năng lượng lành tới cứu nguy cho vùng đất trời đang bị nạn. Lời cầu nguyện: “ Xin hướng về Nước của Lò Nguyên Tử Fukushima, chúng tôi xin tạ lỗi đã làm cho Nước phải chịu đựng khổ đau. Xin tha lỗi cho chúng tôi. Xin cảm tạ Nước với lòng yêu thương.” (The Water of Fukushima Nuclear Plant, we are sorry to make you suffer. Please forgive us. We thank you and we love you.) Một lời nguyện đơn giản thế thôi, nhưng nếu được cả hàng tỷ người cùng phát sóng từ trái tim mình, năng lượng giao thoa sẽ có hùng lực không thể nghĩ bàn, xoay chuyển được những chuyển động của vũ trụ.

Không phải chỉ có ngày hôm nay mà ước mong mùa Phật Đản năm nay và mãi mãi rằng, chỉ có sóng lành trôi chảy trong tâm thức của nhân gian để cho bụi đời lắng xuống: Một con nước đục, một chục dòng trong. Chỉ có sự trong ngần mới thấy được nhau để cảm thông và hóa giải.

 

Sacramento, mùa Phật Đản 2600; Vesak 2011

 Trần Kiêm Đoàn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39719)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15320)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37342)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40069)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14314)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14838)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13842)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12684)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11771)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22551)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12514)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12575)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33259)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14839)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12461)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12390)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30687)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19373)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11852)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13198)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13202)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30702)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12043)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12728)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29420)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11789)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9994)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35410)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10053)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27813)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15504)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13687)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9849)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9698)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18331)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9575)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31749)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12337)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13322)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8832)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9446)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11946)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9077)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29373)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33272)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32276)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27108)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8454)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13017)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant