Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2: Giáo pháp Thời Luân và khoa học Tây phương

09 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10491)
Phần 2: Giáo pháp Thời Luân và khoa học Tây phương

KALACHAKRA VẤN ĐÁP PHẦN 2:
GIÁO PHÁP THỜI LUÂN VÀ KHOA HỌC TÂY PHƯƠNG

Question Sessions with H. H. the Fourteenth Dalai Lama Concerning the Kalachakra Initiation
Dharamsala, India, November 5, 1983; August 13, 1984; January 22, 1985; March 25, 1985; March 26, 1986
Anh dịch: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 02/01/2011

blankMục lục

1- Quan Hệ Giữa Giáo Pháp Thời Luân Và Người Tây Phương
2- Quan Hệ Giữa Giáo Pháp Thời Luân Và Khoa Học Tây Phương
3- Những Hạt Vi Tế trong Thời Luân Kim Cương
4- Giáo Pháp Thời Luân Và Sự Miêu Tả Vũ Trụ
5- Tìm Những Sự Tương Đồng Xa Hơn trong Thời Luân và Khoa Học
6- Yêu Thương trong Ki Tô Giáo và Phật Giáo
7- Xác Nhận Một Cách Khoa Học, Núi Tu Di có Thật Sự Hiện Hữu Không
8- Giá Trị của Sự Trình Bày Thời Luân về Vũ TrụThân Thể như Căn Bản cho Việc Tịnh Hóa
9- Thời Luân Kim Cương và Y Dược Tây Tạng

1- Quan Hệ Giữa Giáo Pháp Thời Luân Và Người Tây Phương

BERZIN: Người Tây phương có một mối quan hệ đặc biệt với Giáo Pháp Thời Luân không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi tự hỏi, họ thật sự có không? Một cách tổng quát, giáo huấn Nhà Phật là vì lợi ích của tất cả chúng sinh, không phải chỉ cho một số người đăc biệt.

BERZIN: Một số người có thành kiến về nó.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Bây giờ trong vấn đề Thời Luân Kim Cương, nó nói về Shambhala và một cuộc chiến chống lại những người xâm lược Lalo. Có thể đã từng có một mối quan hệ quan trọng đối với những ai đã sống trong thời kỳ được biết nhiều đến những cuộc xâm chiếm của người Hồi với Ấn Độ. Tôi tự hỏi có hay không một sự liên hệ nào đấy trong phổ quát với những ai sống trong những thời kỳ đó về hiểm họa của chiến tranh. Nhưng, như cho một mối quan hệ đặc biệt với người Tây phương chung chung, tôi không biết? Serkong Rinpochey đã nói gì?

BERZIN: Người Tây phương thích khoa học và kỹ thuật, và Shambhala có liên hệ nhiều đến kỹ thuật cao. Có lẽ, có một sự liên hệ trong những dạng thức ấy.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, ông có thể nói có một sự liên hệ thế nào ấy như thế. Nhưng, vấn đề của loại liên hệ ấy là gì? Có một số tương tự nào đấy, nhưng có phải là nó không luôn luôn gần gũi đến hoàn cảnhcon người ở khắp nơi nói về chiến tranh hay không? Do vậy, lý do ấy là không chính xác.

 

2- Quan Hệ Giữa Giáo Pháp Thời Luân Và Khoa Học Tây Phương

BERZIN: Có mối quan hệ nào giữa Giáo Pháp Thời Luân và khoa học Tây phương không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi có thể nói như thế.

BERZIN: Đôi khi, Thánh Đức nói về một điểm gặp gỡ thông thường giữa Phật học và khoa học, có phải ở trong hình thức của Thời Luân?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Không. Không nhất thiết đặc biệt trong những dạng thức của Thời Luân Kim Cương; một cách phổ thông. Căn bản tin tưởng trong Đạo Phật là nếu điều gì được hỗ trợ bởi lý trí, thế thì chúng ta phải chấp nhận nó; và nếu điều gì đấy không có lý trí hay vô lý, thế thì không cần phải chấp nhận. Ngay cả những lời của chính Đức Phật cũng phải được diễn dịch trong một cung cách khác không bóng bẩy nếu chúng vô nghĩa hay vô lý.

Thí dụ, chúng ta chấp nhận trích dẫn “A” từ Đức Phật, trong khi chúng ta không chấp nhận trích dẫn “B”. Tại sao? Vì nếu tính chất có thể chấp nhận của Đức Phật, chúng ta phải căn cứ trên những từ ngữ khác của Đức Phật, rồi thì những thứ này sẽ đòi hỏi những từ ngữ khác của Đức Phật [được thừa nhận] và nó là một sự thoái bộ vô tận, có phải không? Do vậy, trong những dạng thức thực tế, chúng ta cần phải giải thích một có ngôn từ của Đức Phật chỉ khi có những ý nghĩa có thể diễn dịch và chỉ chọn lựa những từ ngữ khác khi có thể xác định rõ. Nếu đấy là trường hợp, có nghĩa là ý nghĩa tối hậu của Đức Phật phải phù hợp với lý trí.

Bây giờ, trong dạng thức của khảo sát khoa học, nếu điều gì đấy có thể minh chứng như thực tế, thế thì nó được chấp nhận. Hoạt động khoa học trên căn bản ấy, có phải không? Thí dụ, một nhà khoa học làm một thí nghiệm và điều gì đấy xảy ra. Rồi thì, ai đấy tiến hành cùng thí nghiệm và cùng có một kết quả. Tiến trình này thiết lập điều gì đấy như một sự kiện thực tế. Đấy là hoạt động của khoa học như thế nào. Vì thế, thái độ căn bản của khoa học là nếu điều gì đấy là một sự kiện có thể xác minh thực tế, chấp nhận nó; và nếu nó không thể xác minh, đừng tin tưởng nó.

Đấy cũng là thái độ căn bản của Phật học, có phải không, đặc biệt trong Đai Thừa. Tôi tự hỏi hệ thống giáo thuyết Tiểu Thừa thật sự giải thích lời Phật dạy có một sự diễn dịch và xác định ý nghĩa khác biệt hay không? Một cách chắc chắn, họ không có. Trong họ, tất cả lời Phật dạy là xác định rõ ràng một cách cùng khắp. Tuy thế, hệ thống giáo nghĩa Đại Thừa giải thích hai cách – lời Phật dạy là có thể diễn dịch và một bộ phận là xác định rõ ràng ý nghĩa.

Nếu đây là vấn đề thừa nhận, thế thì, như tôi đã giải thích, quyết định những gì là dứt khoát thuộc về lý trí. Nó không thể bị căn cứ trên tín lý. Nếu đấy là trường hợp, thế thì nếu những nhà khoa học tìm thấy một kết quả cụ thể nào đấy hay chứng minh rằng không có đời sống tương lai, không có tái sinh – nếu họ có thể chứng minh thật sự điều đó – chúng ta phải chấp nhận nó như thái độ căn bản của Phật học. Do vậy, sự tiếp cận nền tảng của Phật Giáo là một mà nó phù hợp với sự thậtlý trí. Đấy là một điểm.

Bây giờ điều thứ đến, có những sự giải thích đặc thù trên những điều mà cả Phật học và khoa học nhất trí. Thí dụ, Phật Giáo thừa nhận rằng tất cả mọi hiện tượng bị điều kiện hóa hay tác động bởi những hiện tượng khác hoại diệt từ thời khắc này đến thời khắc khác mà không bao giờ duy trì bất động. Mọi thứ thay đổi một cách liên tục từ thời khắc này đến thời khắc khác, một cách vi tế, không bao giờ đứng yên tĩnh. Những nhà khoa học cũng đồng ý rằng những hiện tượng vật lý thay đổi một cách vi tế mỗi thời khắc, mà không đứng bất động – đấy là, bởi vì chúng lệ thuộc trên những nguyên tử - và tuy thế, trên mức độ thô, chúng hiện hữu không thay đổi. Không phải chứng minh rằng chúng hiện diện duy trì hình thể chúng như thế, không có bất cứ sự thay đổi nào: chúng ta có thể thấy điều ấy với đôi mắt của chúng ta. Do vậy, liên hệ đến vấn đề rằng trên mức độ thô mọi thứ dường như bất động, bất biến, nhưng ở mức độ vi tế chúng không duy trì tĩnh lặng dù chỉ trong một khắc, khoa học và Phật học nhất trí điều này là sự thật.

Xa hơn nữa, có sự tương đối; do thế, giáo lý vạn pháp tương sinh duyên khởi. Bất cứ điều gì hiện hữu được thiết lập như duyên sinh hay trên sự liên hệ đến những thứ khác. Điều này cũng thông dụng giữa hai hệ thống. Mặc dù các nhà khoa học không thảo luận những hiện tượng (tĩnh) không động, nhưng họ vẫn đồng ý rằng tối thiểu với hình tướng hay những điều xảy ra theo thời gian cũng duyên sinh với những nhân tố khác, thí dụ trên nguyên nhânđiều kiện. Những sự xác chứng này được thiết lập trong mối quan hệ đến những nhân tố khác hơn chính chúng.

Điều mới nhất mà các nhà khoa học đang thảo luận trong dạng thức của vấn đề quan tâm đến lý thuyết lượng tử và những hạt vi lượng. Người ta khám phá và đang bắt đầu thấu hiểu rằng mức độ cực kỳ vi tế này của vật chất được liên kết với sự lĩnh hội một cách mật thiết. Nói cách khác, tâm thức nhận thức trình độ này như sự nhận thức đối tượng của nó trở nên liên hệ.

[Thí dụ, thời giankhông gian của một đối tượng liên hệ đến thời gian và tốc độ của đối tượng và của người quán sát. Phương hướng và tốc độ của người quan sát liên hệ đến phương hướng và đến tốc độ của đối tượng bị quán sát mà điều ấy ảnh hưởng sự định lượng của người quán sát đối với vị trí và thời gian/không gian của đối tượng.]

Khi ông nghiên cứu sóng, đấy là vật chất hay năng lượng? Từ một cách quán sát, nó là vật chất và từ một cách nhận thức khác, nó là năng lượng. Đạo Phật gọi mối quan hệ “hai thực tế về cùng khía cạnh của một hiện tượng” và giải thích nó như hai thứ chia sẻ cùng bản chất tự nhiên, nhưng biểu hiện như những thứ biệt lập khác nhau một cách nhận thức.

Vì thế, sự xác định quy ước của sóng như yếu tố hay như năng lượng là một chức năng định danh của tinh thần. Điều này hàm ý rằng sự khác biệt giữa yếu tốnăng lượng phải được thấu hiểu trong dạng thức của người nhận thức [và không vốn dĩ như thế trong tự đối tượng.] Điều này cho thấy mối liên kết gần gũi giữa nhận thứcvật chất.

Trong quá khứ, khoa học cổ điển có thể có một số năng lực bên cạnh vật chất hay không, nó có phải là ý thức hay bất cứ điều gì khác hay không. Khi chúng ta quan tâm đến vấn đề này, thế thì, khi bất cứ hệ thống nào, không chỉ Phật giáo, thừa khẳng định những hiện tượng nào đấy là không sai lầm, vấn đề là có hay không điều gì đấy là không sai lầm tùy thuộc trên nhận thức; và nhận thức là điều gì đấy nội tại, chứ không phải ngoại tại. Nhận thức là điều gặp gỡ và liên hệ với những đối tượng và điều làm sự định danh việc gì đấy là sai lầm hay không.

Sự phân định và thảo luận chi tiết nhất của sự định danh của nhận thứctinh thần không nghi ngờ gì nữa được tìm thấy trong Đạo Phật. Trong Phật Giáo, những truyền thống khác nhau của A tỳ đạt ma (những chủ đề đặc biệt của nhận thức) giải thích nhiều về ý thức chính (tâm vương) và những nhân tố tinh thần (tâm sở). Tantra, đặc biệt là tantra yoga tối thượng (mật điển vô thượng du già), thảo luận về những ý thức thô và vi tế và mối quan hệ giữa tâm thức và năng lượng/gió vi tế. Tôi chắc chắn rằng trong thế kỷ tới sẽ trở nên rõ hơn là nơi gặp gỡ của khoa học Tây phươngtriết học Đông phương sẽ quan tâm đến mối quan hệ giữa tâm thức (nhận thức) và vật chất trong dạng thức của những chủ đề. Đó thật sự chính là nơi mà khoa học Đông và Tây có thể gặp gỡ.

 

3- Những Hạt Vi Tế trong Thời Luân Kim Cương

BERZIN: Có bất cứ điều gì trong Giáo Pháp Thời Luân có thể phục vụ như một nơi gặp gở cho một cuộc thảo luận tức thời về những hạt vi tế không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, điều này sẽ là trong dạng thức của những hạt vi tế. Một cách tổng quát, cho dù có hay không sự đề cập của Tôn giả Thiên Thân trong A tỳ đạt ma câu xá luận, trong Giáo Pháp Thời Luân ông có những hạt không gian. Trong không gian trống rỗng, có những hạt không gian và đấy chính là căn bản thật sự của những hạt tiến triển thô hơn, đấy là của bốn đại: đất, nước, gió, lửa. Một vũ trụ trước đây biến mất và có một thời kỳ của không – một cách đặc biệt hơn, có những thời kỳ hoại, theo đấy là những thời kỳ của không và trong hai mươi thời kỳ trung gian của không, có những hạt không gian. Theo đấy, trong những thời kỳ sinh khởi, căn bản cho sự sinh khởi của không gian, gió, lửa, nước, và đất là những hạt không gian.

BERZIN: Chúng ta hiểu những hạt không gian như thế nào? Có phải chúng là sắc [chất]?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MAchắc chắn là như thế này. Luận Trung Quán và Kinh Đại Bát Nhã thừa nhận năm loại sắc chỉ trong cội nguồn nhận thức tất cả là những hiện tượng pháp (sắc chỉ trong nguồn gốc nhận thức của Giáo Pháp). Đây là những sắc đến từ sự tích tập, đây là những thứ sinh khởi một cách rõ ràng từ sự tiếp nhận chúng (chẳng hạn như thệ nguyện), những thứ ấy tồn tại trong những hoàn cảnh thực sự [chẳng hạn như những khoảng cách thiên văn [rất lớn] và kính hiển vi [rất nhỏ] giữa những vật], đấylà những thứ tưởng tượng một cách hoàn toàn [chẳng hạn như nhận thức trong mơ], và những thứ từ sự đạt được kiểm soát những yếu tố.

Đối với những thứ đến từ sự tích tập, chúng được giải thích như những hạt vi tế và chúng có một hình cầu. Đây là những thứ chắc chắn đến từ Bát nhã ba la mật đa và, ở đấy những hạt vi tế là những sắc chất chỉ ở trong cội nguồn nhận thức Pháp. Chúng không thể bằng mắt thường. Tuy thế, chúng là sắc nhưng chỉ có thể được biết bằng tâm thức. Chúng dạng hình cầu. Những thứ này không nghi ngờ gì nữa là những nguyên tử trong thế giới ngày nay của chúng ta. Chúng tất cả hình cầu, có phải thế không? Chúng dường như thật sự tương tự.

[Chú ý: Sắc [chất] có hình dáng và màu sắc. Để nói rằng chúng có màu sắc hàm ý bước sóng thường trên một cái đo phổ, mà nguyên tử hay hạt có.]

BERZIN: Và những nguyên tử của không gian?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Những gì tôi vừa giải thích là những nguyên tử như được trình bày trong a tỳ đạt ma, và tôi nghĩ rằng những hạt được giải thích trong Giáo Pháp Thời Luân thậm chí vi tế hơn thế. Những nguyên tử a tỳ đạt maliên hệ đến bốn yếu tố: những yếu tố của đất, nước, gió, lửa – chắc chắn tương ứng ở đây với những hạt đất của Thời Luân. Những thứ này thường được gọi là những nguyên tử. Rồi thì, đối với những hạt không gian trong Thời Luân, chúng ta có bốn hạt hạ nguyên tử vi tế hơn những nguyên tử a tỳ đạt ma. Đối với điều gì là tính tự nhiên căn bản của chúng (chúng là gì). Tôi không biết một cách rõ ràng.

Tuy thế, có một điểm liên hệ, trong Tantra Tối Thượng của Di Lặc. Một cách ngoại tại, có sự tan rã liên tục của đất, nước, gió, lửa, và không gian; và đối với thế hệ liên tục, gió, lửa, nước, và đất sinh ra. [chú ý rằng trong Tantra Tối Thượng không có ‘lửa’]. Một cách ngoại tại, những gì mà những yếu tố phát triển ra là không gian và những gì chúng tan biến trong không gian.

Giống như thế, nội tại, tính tự nhiên trỗng rỗng của chúng ta, như một nhân tố Phật tính (một bào thai chứa đựng một Như Lai), từ điều mà những thứ sinh khởi và được tích lũy lại. Khi ông áp dụng điều này một cách nội tại đến tâm thức, không gianhành vi tinh thần ánh sáng trong suốt, hay tính không của tịnh quang, hay không gian của tịnh quang.

Giáo Pháp Thời Luân thảo luận không gian bao gồm trong không gian – như sự tương tục tinh thần, không gian bao gồm trong hạt xanh dương. Khi người ta có thể nhận ra không gian này, không gian này chắc chắn có thể được giải thích như một hạt không gian. Tôi không biết một cách rõ ràng hay tường tận. Tuy thế, đây là một ít đặc trưng đặc biệt.

BERZIN: Có phải những hạt không gian này tĩnh (thường trụ)?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: chúng có thể thật sự tĩnh không? Không chúng không tĩnh. Tuy thế, đối với việc Zijin-nyingpo giải thích trong luận giải của ông, điều ấy sẽ làm nó chắc chắn hơn không? Tôi không biết.

 

4- Giáo Pháp Thời Luân Và Sự Miêu Tả Vũ Trụ

BERZIN: Có lợi ích không cho những người Tây phươngniềm tin trong Đạo Phật và những người thích thú trong khoa học nghiên cứu Giáo Pháp Thời Luân? Có lợi ích cho họ không trong việc tìm kiếm những sự tương quan giữa Giáo Pháp Thời Luân và khoa học?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không thật biết. Giáo Pháp Thời Luân tự nó giải thích rất nhiều thứ. Thí dụ, một người như tôi, tôi có sự hấp dẫn trong Thời Luân và tôi có thể cảm thấy thoải mái với nó. Có thể nói, tôi thích ứngtương hợp với nó. Nhưng nếu một số nhà khoa học chỉ đọc thoáng nhanh qua, nó sẽ không thể biểu lộ thích ứng với tâm thức họ như thế này. Để bắt đầu, người ta sẽ đón nhận sự trình bày về ngoại, nội, và luân phiên Thời Luân và điều ấy có thể làm nên nhiều phức tạprắc rối. Thí dụ, chương một, Cảnh Giới Thế Gian, giải thích núi Tu Di và Lục Địa Phương Nam, Diêm Phù Đề. Điều này trở nên hoàn toàn hỗn độn. Nó hoàn toàn vô nghĩa, có phải không?

BERZIN: Tôi đã nghe ngài một lần nào đấy nói rằng Núi Tu Di có thể ở dãy Ngân Hà.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Ô, tôi chỉ nói một cách ngẫu nhiên. Tôi không thật sự cứng nhắc lắm.

Tuy thế trong truyền thống Sakya giải thích một điểm liên hệ về Thời Luân trong sự phối hợp với giáo huấn ‘con đường cùng với kết quả của nó’ (lamdray ). Theo sự giải thích này, tất cả những hiện tượng ngoại tại là hoàn toàn trong thân thể con người. Cung cách an trú [tồn tại] của thân thể con ngườihoàn toàn trong những kinh mạch năng lượng. Cung cách tồn tại của những kinh mạch là chúng hoàn toàn trong những âm tiết. [Cung cách an trú của những âm tiết là chúng hoàn toàn ở trong những hạt năng lượng cấu thành nguồn gốc. Cung cách an trú những hạt năng lượng cấu thành nguồn gốc là chúng hoàn toàn ở trong khí năng lượng.] Điểm căn bản cuối cùng của điều này là [cung cách an trú hay sự tồn tại của mọi thứ] là hoàn toàn trong tâm thức nền tảng [tàng thức alaya].

[Trong hệ thống lamdray, tâm thức nền tảng liên hệ đến tương tục nhân của tàng thức alaya, đấy là trình độ tịnh quang vi tế nhất của hoạt động tinh thần. Nó không liên hệ đến tâm thức nền tảng như được thừa nhận trong Duy thức học.]

Vì thế, với tất cả những hiện tượng ngoại tại biểu hiện hoàn toàn ở trong thân thể con người, rồi thì trên một phía chúng ta có thể thấu hiểu điều này trong dạng thức của những biểu tượng. Bốn châu (lục địa) và Núi Tu Dihoàn toàn ở trong thân thể con người, một cách biểu tượng. Giáo Pháp Thời Luân trình bày điều gì đấy tương tự như thế. Núi Tu Di là một phần của xương sống, trong khi những trình độ của tham dục cảm giác (dục giới), những hình sắc siêu trần (sắc giới), và chúng sinh vô sắc (vô sắc giới) là những bộ phận của thân thể từ gót chân đến đỉnh đầu.

[Núi Tu Di là xương sống, từ chỗ tiếp giáp với xương mông đến xương cổ. Dục giới, thế giới tham dục mở rộng từ gót chân đến một phần ba xương cổ. Sắc giới, thế giới hình sắc siêu trần từ đấy đến trán, và Vô sắc giới, thế giới không hình thể từ trán đến đỉnh đầu].

Nói cách khác, trong thân thể con người, từ gót chân đến đỉnh đầu, có ba thế giới luân hồi (tam giới) được giải thích trong Giáo Pháp Thời Luân, đấy là ba mươi mốt thế giới của trần gian là hoàn toàn. Do bởi điều ấy, chúng ta có thể nói là thân thể con người chứa đựng những biểu tượng.

Rồi thì, về phía khác, chúng ta có thể giải thích ba cõi thể hiện hoàn toàn trong thân thể con người trong một cách khác. Hành vi tinh thần (tâm thức) có nhiều trình độ thô và vi tế hay phương diện. Thế thì, trong quan điểm của tình trạng này, thí dụ, có những cảm nhận thô; và từ những cảm nhận thô, có cảm nhận thô của khoái lạc.

Thế rồi, như Đại Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nói trong Con Đường Tiệm Tiến Lamrim: Những Hướng Dẫn Cá Nhân từ Văn Thù Sư Lợi, chúng sinh tiến hành trong những hành vi nghiệp báo vì việc đạt đến những kinh nghiệm cảm nhận khoái lạc và hạnh phúc. Những ai tìm kiếm sự hiện thực những cảm giác dữ dội của khoái lạc [bởi hành động tàn hoại] tích tập nghiệp báo không đáng khen [bị tái sinh một trong những tình trạng tệ hại của tái sinh]. Tuy thế, trong phổ quát, những ai với tư tưởng chính yếu chạy theo một cảm giác khoái lạc từ những giác quan xây dựng cho việc tái sinh trên [những thể trạng tệ hại hay tốt hơn của] thế giới tham dục [tùy thuộc trên việc hoặc là họ hành động một cách tàn hoại hay xây dựng.]

Rồi thì, có những ai chuyển từ khao khát cho những cảm giác ngoại tại, mà tìm cầu những cảm giác hỉ lạc nội tại từ tập trung thẩm thấu (tam muội hay định chỉ) và người tích tập nghiệp báo. Một tâm thức hành động như thế bồi đắp nghiệp nhân cho việc tái sinh trên những cõi sắc giới, từ thể trạng thứ nhất đến thứ ba của tinh thần ổn định (sơ thiền đến tam thiền). Nhưng ai khao khát một cảm giác bình đẳng đến một cách nội tại từ tam muội, vượt khỏi cảm giác khóa lạc, xây dựng nghiệp nhân cho thể trạng thứ tư của ổn định tinh thần (trên sắc giớitứ thiền).

Rồi thì, khi sự giải thích những sự khác nhau giữa sắc giớivô sắc giới, khi sau khi ngăn chặn sự xuất hiện tất cả mọi hình sắc, chúng ta thiền quán trên không hay trên bức màn tính không như không gian, và v.v…, chúng ta xây dựng nghiệp nhân cho việc tái sinh trong một của bốn cõi vô sắc: thế giới chư thiên của không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Vì thế, khi chúng ta nhìn vào nó từ một phía, vì có những trình độ thô và vi tế của hành vi tinh thần, rồi thì, dưới sự ảnh hưởng của tâm thức nọi tại thô và vi tế này [liên hệ đến những khoái lạc thô và vi tế và những khát vọng tìm kiếm sau chúng], chúng ta tích tập nghiệp nhân. Dưới năng lực của nghiệp nhân này, ba cõi luân hồi được thiết lậphiện hữu.

Điều ấy hiện hữu như thế, rồi thì khi chúng ta nói rằng ba cõi luân hồi được thiết lậphoàn thành trong thân thể con người qua những biểu tượng; sau đó, suy nghĩ về nó trong một cách, chúng ta có thể thấu hiểu điều này trong dạng thức của sự ảnh hưởng của nghiệp. Tâm thức hay hành vi tinh thần là một khía cạnh của Phật tính (cội nguồn chuyển hóa chân thật); và nó dưới sự ảnh hưởng của tâm thức, hay căn cứ trên tâm thức, mà chúng ta tích tập nghiệp nhân. Từ đấy, chúng ta có một cách thiết lập thân thể con người. [nói cách khác, thân thể của thể trạng tái sinh đến từ tâm thức đã có một sự tích lũy nghiệp nhân cho những kinh nghiệm của thể trạng tái sinh ấy.]

Với [sự thiết lập của thân thể vật lý này từ nghiệp nhân] như một hoàn cảnh, chúng ta cũng có thể thiết lập [từ Phật tâm bản nhiên tích tập nghiệp] vị trí vật lý dục giới, mà trong ấy những con người sống chủ yếu. Không có nghi ngờ gì về đặc trưng đặc biệt này.

Sự hiện hữu như thế, rồi thì núi Tu Di và v.v… được giải thích trong Giáo Pháp Thời Luân, trong thực tế, có một ý nghĩa sâu xa hơn. Chúng liên hệ một cách chính yếu đến hoàn cảnh kham nhẫn của thân thể của một con người của Nam Lục Địa (Diêm Phù Đề). Sự trình bày của một Diêm Phù Đề ngoại tại ở đấy trong Giáo Pháp Thời Luân do bởi sự cần thiết cho sự giải thích sự liên hệ giữa thế giới ngoại tại và nội tại – mỗi biểu tượng của chúng là tương đương với nhau. Trong ý nghĩa này, không nhất thiết rằng Núi Tu Di hiện hữu như một quả núi khổng lồ đứng nơi nào đấy trong thực tế trong một vị trí riêng biệt nào đấy.

BERZIN: Serkong Rinpoche nói rằng Núi Tu Di trong Giáo Pháp Thời Luân trông giống như nó ngang qua đầu chúng ta và sắp rơi xuống trên chúng ta. Điều đó liên hệ đến vấn đề gì?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Trong A tỳ đạt ma câu xá, Núi Tu Di là vuông và ở đây, trong Giáo Pháp Thời Luân, nó tròn và phình ra trên đỉnh. Diêm Phù Đề là tròn ở phần dưới của nó vì thế khi chúng ta nhìn lên phần đỉnh to rộng hơn của Núi Tu Di, nó hiện hữu lơ lửng trên đầu chúng ta. Vì thế, nó trông như nó sắp rơi xuống.

 

5- Tìm Những Sự Tương Đồng Xa Hơn trong Thời Luân và Khoa Học

BERZIN: Những phẩm chất của một vị Phật bao gồm khả năng tiếp nhận một giáo huấn thế tục và biến nó thành một lộ trình cho Phật Pháp. Tuy thế, điều này đòi hỏi phương tiện thiện xảo. Câu hỏi của tôi quan tâm đến việc làm thế nào phát triển phương tiện thiện xảo để làm việc gì đấy tương tự trong trình độ của chúng ta.

Thí dụ, trong Chương Nghi Quỹ của Mật Điển Thời Luân, quan tâm đến những điểm ẩn tàng về hiến tế từ tự và v.v… trong kinh Vệ Đà, mật điển giải thích rằng khi Vệ Đà nói hiến tế súc vật, điều này giống như những liên kết gần gũi trong Bí Mật Tập Hội hay Thời Luân để giết mạng sống. Lấy mạng sống có một ý nghĩa ẩn dụphương tiện để hóa giải những luồng khí hổ trợ sự sống.

Xa hơn, khi Vệ Đà nói về âm thinh nada không thể phá vở, chúng ta phải thấu hiểu điều này có nghĩa hạt chất nguyên sơ không thể hủy hoại [1] và đặc trưng âm thinh của yếu tố không gian.

Tuy nhiên, trong những nơi khác, thí dụ trong chương Cảnh Giới Thế Gian, khi đức Vua giải thích thiên văn đến tiên nhân Suryaratha, ngài nói rằng lời trong Vệ Đà về cảnh giới Phạm Thiên có kích thước mười triệu do tuầnkhông thật.

Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng đôi khi những gì được nói trong Vệ Đà là những biểu tượng ẩn dụ và đôi khi được thừa nhậnkhông thật.

Tương tự thế, trong Đại Luận Giải Mật Điển Thời Luân, Kaydrubjey [2] giải thích rằng đôi khi Đức Phật đã nói sự vật có sự tồn tại cố hữu (có tự tính), nhưng Ngài có một khuynh hướng khác và nó chỉ đơn thuần là một ẩn dụ. Tuy thế, Đức Phật chưa bao giờ nói có một tự ngã độc lập, nguyên khối, bất biến. Đấy là một điều không thật hay lừa dối.

Nếu đấy là trường hợp, thế thì khi giải thích Giáo Pháp đến những người phương Tây và nói về tôn giáo và khoa học phương Tây, làm thế nào chúng ta phân biệt những gì được nói là biểu tượng ẩn dụ và những gì là sai lạc? Lý do cho câu hỏi của tôi là rất dễ dàng để làm nên những sự tương đồng sắc sảo cho Giáo Pháp Thời Luân. Đôi khi, những vấn đề trong Mật Pháp Thời Luân và trong tôn giáo cùng khoa học Tây phương sẽ là những sự tương đồng với nhau, nhưng đôi lúc những điều trong thứ này hay thứ kia sẽ là những điều tin tưởng sai lầm.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MAMật điểnkinh điểntài liệu làm căn cứ đáng tin. Ngoại trừ có một liên hệ kinh điển trong ấy, chúng ta không cần tạo nên những điều ấy và khẳng quyết rằng từ trong tâm Đức Phật đã có một sự tương đồng với tôn giáo hay khoa học phương Tây.

 

6- Yêu Thương trong Ki Tô Giáo và Phật Giáo

BERZIN: Ki Tô Giáo nói về yêu thương, vì vậy điều này có giống như yêu thương của chúng ta trong Phật Giáo không? Chúng ta có thể nói gì về điều này?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Ki Tô Giáo dạy về tình yêu đối với Thượng Đế và tình yêu đối với con người. Khi người ta nói chúng ta phải yêu mến Thượng Đế, họ muốn nói là chúng ta phải giữ Thượng Đế gần trái tim của chúng ta, và chúng ta phải thích ngài và yêu mến ngài. Phật Giáo cũng dạy phải tôn kínhquý mến Đức Phật. Ki Tô Giáo nói chúng ta phải có một trái tim và cảm giác nồng ấm, không cho tất cả chúng sinh bao gồm những con bọ, mà đặc biệt cho con người chúng ta mà thôi. Do vậy, nếu chúng ta nói một cách tổng quát, chúng ta có thể thấu hiểu điều này giống như yêu thương trong Phật Giáo và nó là giống nhau.

Nhưng, đối với Ki Tô Giáo nói về một đấng tạo hóa, nếu chúng ta nói rằng trong Đạo Phật thuật ngữ này có thể được hiểu là tính không, mặc dù chúng ta có thể làm nên một sự diễn dịch như vậy, nhưng điều này sẽ không thế. Thí dụ, ông có thể có thể nói tính không, như một bào thai chứa đựng Như Lai, (như một nhân tố Phật tính) là tạo hóa. Nó là vô tướng, không thể tưởng tượng được, và không thể đặt trong ngôn ngữ, như Thượng Đế. Mặc dù chúng ta có thể nói thế, tôi nghi ngờ nói như thế sẽ không thực tế. Tôi không nghĩ điều đó là có thể chấp nhận, có thể Okay.

Giống như thế, khi đến với triết học, có những sự bất đồng thuận. Đạo Phật không thừa nhận một đấng tạo hóa trong cách mà Ki Tô Giáo thừa nhận Thượng Đế như đấng tạo hóa. Phật Giáo không chấp nhận. Đạo Phật sẽ nói rằng tâm thức căn bản của một người, trong một ý nghĩa, là một tạo hóa (nhất thiết duy tâm tạo), nhưng không có Đấng Tạo Hóa Toàn Năng cơ bản. Chúng ta có thể nói như thế và giải thích nó như thế.

 

7- Xác Nhận Một Cách Khoa Học, Núi Tu Di có Thật Sự Hiện Hữu Không

BERZIN: Vậy thì tốt nhất là không nên nói rằng những gì khoa học nói là giống như Phật học?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Khoa học có sự tiếp cận như Phật học. Tôi nghĩ rằng từ nhận thức này, cả hai đều đến cùng một vấn đề. Đấy là một là trên những thái độ căn bản của Phật học. Thí dụ, có hai loại đối nghịch xuyên tạc: đấy là những sự tự ý thêm vào và những thứ là hoàn toàn tưởng tượng [tương ứng với sự phủ nhận]. Những đặc trưng này liên hệ đến điều gì? Một thái độ đối nghịch tin rằng điều gì đấy tồn tại không tồn tại là một thái độ xuyên tạc là phủ nhận. Một thái độ khác tin rằng điều gì đấy không tồn tại tồn tại là một thái độ tự ý thêm vào xuyên tạc.

Thí dụ, nếu Núi Tu Di hiện hữuchúng ta nói rằng nó không hiện hữu, đó là một thái độ xuyên tạc. Nếu nó không tồn tạichúng ta nói nó tồn tại, đó cũng là một thái độ bóp méo. Điều ấy có nghĩa rằng bất cứ điều gì là sự thật, đó là điều chúng ta phải chấp nhận. Thí dụ, nếu trên mặt đất, có một con voi và nó là có thể thấy được, chúng ta phải thấy nó bởi vì nó có thể thấy. Sử dụng luận lý kiểu này, nếu điều gì đấy hiện hữu (và có thể thấy), chúng ta phải thấy nó. Và nếu nó có thể thấy mà chúng ta không thấy, thế thì nó không hiện hữu.

Vậy thì giống như thế, liên hệ đến việc Núi Tu Di hiện hữu hay không, khi chúng ta khám phá trong phi thuyền không gian và nếu có có thể được thấy một cách rõ ràng – bởi vì nó được diễn tả như một đối tượng của thị giác – và nếu chúng ta không thấy – dĩ nhiên, nếu nó là điều gì đấy tồn tại nhưng nó không thể được thấy, đấy là điều gì đấy hoàn toàn khác biệt – nhưng nếu nó là trường hợp rằng nếu nó tồn tại phải được thấy, rồi thì nếu nó không thể được thấy, chúng ta có thể quyết định rằng nó không tồn tại. Vì những luận điển nói rằng Núi Tu Di thật hiện hữu, thế thì chấp nhận đối với chúng thể hiện một ý nghĩa diễn dịch [y nghĩa bất y ngữ], [không có khả năng nào khác].

Nếu chúng ta nghiên cứu một cách khoa học, rồi thì nếu điều gì đấy tồn tại chúng ta phải có thể chứng thực nó một cách chính xácthí dụ, đường kính của mặt trờimặt trăng. Tôi không nhớ con số chính xác, nhưng đường kính của mặt trời thì lớn hơn mặt trăng nhiều. Chúng ta có thể thấy điều này với nhận thức giá trị thị giác vững chắc; nó được thấy. Tuy nhiên, A tỳ đạt ma câu xá nói rằng đường kính của mặt trăng là năm mươi do tuần và của mặt trời là năm mươi mốt do tuần – chi khác nhau môt do tuần.

Bây giờ, hãy để một bên khả năng tồn tại của Núi Tu Di nhưng chỉ không thấy (vì nó không thể thấy); chúng ta có thể trực tiếp thấy kích thước của mặt trờimặt trăng. Chúng ta có thể thấy mặt trờimặt trăng và nếu mặt trờimặt trăng là thấy được, thì không thể là chúng ta không thể thấy kích thước của chúng. Chúng ta có thể thấy hình tròn của chúng. Chúng ta có thể cảm nhận sức nóng của chúng; chúng ta có thể thấy quỹ đạo của chúng; và chúng ta có thể thấy kích thước của chúng. Vì chúng ta có thể thấy chúng, thế thì khi chúng ta nhìn vào chúng, chúng ta có thể thấy có một độ lớn khác nhau.

Do thế, khi A tỳ đạt ma câu xá nói rằng đường kính của chúng là năm mươi và năm mươi mốt do tuần riêng từng cái, điều này phải bị bác bẻ lại như một mức độ có thể giải thích được của ý nghĩa. Để nói rằng những gì chúng ta thấy trong dạng thức đo lường vật chất không phải là trường hợp – đó là một hiện tướng lừa dối – và những gì Thiên Thân Tôn Giả nói trong Câu Xá về về kích thước năm mươi và năm mươi mốt do tuần của chúng là thật, chúng ta không thể nói thế. Đó là thái độ căn bản của Phật học: khi chúng ta có một sự khám phá khoa học đã chứng minh, chúng ta phải chấp nhận nó.

Khi khoa học không tìm ra điều gì đấy, có hai khả năng: sự không tìm ra của một điều gì đấy không hiện hữutrường hợp của mặc dù điều gì đấy tồn tại, nhưng không thể tìm thấy. Chúng là khác nhau. Thí dụ, về đời sống quá khứ và tương lai và không thể minh chứng chúng một cách khoa học, chỉ là những nhà khoa học không thể tìm thấy chúng, nhưng điều đó không chứng tỏ rằng chúng không tồn tại.

 

8- Giá Trị của Sự Trình Bày Thời Luân về Vũ TrụThân Thể như Căn Bản cho Việc Tịnh Hóa

BERZIN: Cả Kaydrubjey và Kaydrub Norzang-gyatso nói trong luận giải Thời Luân của họ rằng nếu căn bản cho việc tịnh hóa không được thiết lập một cách có giá trị, thì khó khăn để thành lập một lộ trình hiệu lực trong tâm thức cho việc tịnh hóa. Nếu đấy là trường hợp, đâu là một phương pháp thiện xảo để trình bày đến những người phương Tây những căn bản ngoại tại và nội tại cho việc tịnh hóa trong Giáo Pháp Thời Luân là có giá trị?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Như đối với vấn đề môi trường bên ngoài là một căn cứ được tịnh hóa, không nhất thiết chính xác như được diễn tả trong Thời Luân, nhưng trong tổng quát có một căn cứ được tịnh hóa. Có một môi trường bên ngoài: đó là ngoại Thời Luân. Có hoàn cảnh bên trong: đó là nội Thời Luân. Rất đơn giản. Chúng là những căn cứ được tịnh hóa.

BERZIN: Nhưng một cách đặc biệt, chúng ta thiền quán trên tầng bậc phổ thông trong sự tương đồng với núi Tu Di, bốn yếu tố, và v.v…

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Có bốn yếu tố: đất, nước, lửa, và gió. Không cần chúng giống như thế này hay thế kia một cách đặc biệt. Đối với núi Tu Di, vì có những phía và vì có những phương hướng [trong thiên hà], phải có một trung tâm – đấy là núi Tu Di. Nó không nhất thiết hình dáng như thế này hay kích thước như thế nọ.

BERZIN: Tuy thế, thiền quán Thời Luân thật sự đòi hỏi thực hành với một lộ trình tâm thức đấy là tịnh hóa và là trong sự tương hopcj với căn bản cho việc tịnh hóa. Chúng ta có nên giải thích trong những dạng thức của điều này không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, chắc chắn giải thích. Có những thứ này, nhưng không cần giải thích có bao nhiêu tảng đá trên đỉnh núi Tu Di, giống như không cần giải thích hay thừa nhận có bao nhiêu cây cối trên thế giới và có bao nhiêu núi non. Tuy thế, trong tổng quát, có một thế giới (Diêm Phù Đề). Thiết lập điều ấy như một căn bản cho việc tịnh hóa là đấy đủ.

Thí dụ, đối với việc tịnh hóa những tập hợp uẩn của chúng ta có sự tịnh hóa của những kinh mạc năng lượng, nhưng không cần một sự tính đếm chính xác những điều này và những kinh mạch ấy. Tương tự, những tập hợp uẩn của chúng ta là được tịnh hóa, nhưng không cần giải thích, hay biết con số những nguyên tử hay vi trần trong chúng.

[Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng sự tính đếm đặc thù trong Thời Luân về những kinh mạch năng lượng, và v.v…, là một sự minh họa. Nó cho phép chúng ta hành động với chúng song song với những hệ thống thiên văn học, y học, và thiền học với những sự quán tưởng trong một số lượng nào đấy của những hình tượng Phật với một số tay nào đó và v.v… Tuy thế, sự tính đếm thật sự không phải tùy ý. Nó có sự quyết định thẩm quyền của Đức Phậtkinh điển. Chúng ta cần một lối trung đạo: không căn cứ cực đoan trên chữ nghĩa của kinh điển giống như chúng là giáo điều, cũng không xem những gì trong kinh điểnhoàn toàn tùy tiện một cách cực đoan và do thế không có sự tôn trọng đối với kinh điển hay nghĩ rằng không có can hệ gì với kinh luận - y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết].

Thí dụ, chúng ta có mười hai tỉ tế bào não trong thân thể chúng ta. Nhưng không nhất thiết phải có mười hai tỉ lộ trình để tịnh hóa chúng. [Do thế, chúng ta chỉ sử dụng những con số minh họa được Đức Phật lựa chọn, một thẩm quyền hiệu lực, người đã có nhiều mục tiêu khác trong tâm thức khi ban bố chúng. Thí dụ, những kinh luận thẩm quyền liệt kê năm mươi mốt nhân tố tinh thần (51 tâm sở). Không phải tất cả chúng, nhưng là một con số minh họa cho những mục tiêu đặc thù.]

Do vậy, trong tổng quát, hãy chỉ suy nghĩ rằng thân thể có những kinh mạch năng lượng, khí năng lượng và những hạt năng lượng gốc cấu tạo, và ba loại này là được tịnh hóa. Giống như thế, có ngoại môi trường, bốn yếu tố, những lục địa và tiểu lục địa, và chúng cũng được tịnh hóa.

Bây giờ, đối với việc núi Tu Di là tròn, điều này là gì? Thật khó để mà giải thích. Tuy thế, dải Ngân Hà có một trung tâm chung quanh mà nó xoay quanh. Dãi Ngân Hà có một tỉ năm ánh sáng xuyên qua, vì thế nó có một trung tâmChúng ta có thể thiết lập điều ấy như núi Tu Di và rồi thì hình dạng có thể được thôi, Okay thôi, vì nó phồng ra ở đỉnh và tròn.

 

9- Thời Luân Kim Cương và Y Dược Tây Tạng

BERZIN: giáo huấn Nội Thời Luân giải thích những khí năng lượng và v.v… Quan hệ của Nội Thời Luân và ý dược Tây Tạng là gì?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không biết một cách chi tiết. Tuy thế,, những chứng chỉ [cấp cho sự hoàn tất việc học tập Y dược Tây Tạng] đề cập Ý nghĩa Nội tại Sâu xa (Chương)[một tiểu luận của Đức Karmapa thứ Ba Rangjung Dorje trong chương thứ hai của luận giải Cô Đọng Mật Điển Thời Luân của Pundarika, Vô Cấu Quang - Vimalaprabha]. Do bởi đề cập này, tôi tự hỏi mối liên hệ giữa học tập y dược và học tập luận giải này. Tôi đã từng hy vọng được thấy nó. Nếu sự giải thích của nó về những kinh mạch, khí, và hạt năng lượng là giống nhau trong tầng bậc hoàn thành của Thời Luân, thế thì trên căn bản của điều này, chúng ta sẽ biết ở đấy là sự liên hệ với y dược tổng quát Tây Tạng trong dạng thức của những điểm này. Trái lại, tôi không biết.

Bây giờ, ông hỏi những điểm đặc thù trong y dược Tây Tạng xuất phát từ Thời Luân, thì có một công thức cho việc chế tác một trong những viên thuốc quý giá ngulchu-tsodey từ thủy ngân. Điều này đến từ Cô Đọng Mật Điển Thời Luân. Có một đề cập nào đấy về nó trong Mật Điển Hai Chương Hô Kim Cương, nhưng nhiều sự giải thích hơn trong Thời Luân. Việc chế tác những viên ngulchu-tsodey đến từ sự thực hành của Nyingma đại thành tựu giả Drubtob Ogyen-lingpa [thế kỷ thứ mười bốn]. Ngài là một đại hành giả về Thời Luân và có những sự thực chứng lớn lao về điều này. Có sự liên hệ ấy. Nhưng, về việc có một sự liên hệ khác hơn với y dược Tây Tạng tổng quát, tôi không biết.

Phụ chú:

[1 ] the undissipating drop (mi-shigs-pa'i thig-le)

[2 ] một học giả Gelug vào thế kỷ 15

Ẩn Tâm Lộ ngày 24/01/2011
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/kalachakra/attending_kalachakra_initiation/question_sessions_hh/question_hh_initiation_02.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25661)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37876)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18674)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14263)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20106)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9507)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14378)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35571)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10656)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19708)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23206)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13366)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10750)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20228)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10606)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9971)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14881)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17658)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17606)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13192)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31172)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25769)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13983)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17512)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10979)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12295)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10473)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12274)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11761)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9620)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12357)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9200)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8496)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9966)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12037)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14426)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9910)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11207)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8297)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10970)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14091)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15208)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13041)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23080)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23992)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12575)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15430)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17792)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15058)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16559)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17646)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11596)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11622)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17829)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10784)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10521)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11328)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12086)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11050)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9680)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17269)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10244)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10472)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12200)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13636)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14674)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9151)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24811)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11639)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10316)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15947)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15576)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14525)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13005)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12452)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14586)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18360)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9573)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18524)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18591)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19023)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18836)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11832)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13347)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47992)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11067)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13550)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13041)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11067)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12558)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11055)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31777)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11671)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant