Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật vào đời

09 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10910)
Đức Phật vào đời

ĐỨC PHẬT VÀO ĐỜI
Tỳ Kheo Thích Minh Hiếu

Trong Kinh Pháp Cú, Phật nói rằng: “Có 4 cái hạnh phúc chân thật, đó là hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh”, bởi vì nơi nào mà có chư Phật giáng sinh thì nơi đó sẽ mang lại nguồn lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho chư thiênloài người. Tại sao chúng ta gọi là ngày giáng sinh hoặc đản sinh? Đản có nghĩa là vui vẻ, hân hoan, lợi ích cho nên ngày đức Phật sinh ra đời là ngày làm cho người hân hoan, vui vẻ. Đó là nguyên nhân mà mỗi mùa Phật Đản những người con Phật chào mừng ngày đức Từ Phụ ra đời với tinh thần thương yêu, hòa ái. Cờ Phật Giáo có 5 màu, và khi xưa người ta làm cờ với quan điểm là 5 màu thể hiện cho 5 châu nhưng về sau địa cầu có tất cả 6 đại châuPhật Giáo đều đến và làm cho tất cả xứ sở an ổn, hòa bình. 

Trong lịch sử truyền bá của Phật Giáo, đạo Phật đi tất cả các nơi trên thế giới để chia xẻ niềm đau thương của chúng sanhchưa bao giờ đổ máu bởi những cuộc chiến tranh trong vai trò truyền giáo. Hôm nay chúng ta tưởng niệm ngày đản sinh của đức Phật để chia xẻ niềm vui mà Phật đã nói trong Kinh Pháp Cú tức là “hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh.” Chữ giáng sinh mang cái ý nghĩa cao thượng tức là một bậc tu hành nhiều kiếp thị hiện xuống trần gian làm một chúng sanh như chúng ta để chia xẻ nỗi cơ cực, thống khổ triền miên của kiếp con ngườitrở thành bậc giác ngộ. Còn chúng ta thì gọi là được sinh ra trong đời này do cái nghiệp lực bởi ái dục, bởi thương yêu cho nên chúng ta chịu nhiều khổ đau cả ý niệm lẫn tâm thức.

Trong cái hình ảnh sơ sinh của Phật thì chúng ta thấy rằng Phật cũng như bao nhiêu đứa trẻ khác cũng sinh ra, lớn lên và già chết. Nhưng cái quan trọng của Phật mang vào cuộc đờigiáo lý và những tư duy làm cho cuộc đời trở nên thánh thiện. Cho nên khi chúng ta mừng ngày đản sinh của đức Phậtchúng ta tưởng nhớ đến công đức của một người đã đi vào cuộc đời này và mặc dù người ấy đã đi qua cuộc đời này 2626 năm, nhưng những gì người đó để lại cho đời quá rực rỡ, quá tốt đẹp để con người ngưỡng vọng, tưởng niệm, tôn kínhtrở thành một bậc vĩ nhân của nhân loại.

Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này để mở ra một con đường giáo lý, con đường giác ngộ gọi là đạo Phật. Chánh pháp là những giáo lý chân chánh làm cho con người bỏ khổ, trừ mê và cuối cùng thành tựu giác ngộ. Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chánh pháp sẽ ra sao? Vì vậy Phật nói: “Hạnh phúc thay Tăng già hòa hiệp” tức là những đòan thể, những vị tu hành đã thệ nguyện đi theo con đường của đức Phật và tập sống giống như đức Phật để hướng dẫn giáo lý của Phật cho tất cả chúng sanh, gọi là Ưu Bà TắcƯu Bà Di, trở thành người Phật tử chân chánh. Điều quan trọng sau cùng Phật gởi đến chúng ta là: “Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu” tức là mọi người cùng tu để giải thoát những khổ đau, giải trừ những tham vọng, những si mê trong cuộc đời thống khổ này. Tứ chúng gồm có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà TắcƯu Bà Di, cận sự namcận sự nữ. Tứ chúng xây dựng đạo Phật để đi vào cuộc đời cho nên Phật nói đó là niềm hạnh phúc.

Niềm hân hoan chúng ta đón nhận trong ngày Phật Đản nếu có ca hát thì là những bài nhạc thánh thiện khuyến khích những người con Phật nên tinh tấn, nổ lực tu hành, và nếu không thì vẫn có những tấm lòng chân thành tưởng niệm đến công đức của ngài. Nhớ tưởng một cách chân chánh đến đức Phật không có gì hơn là sống thánh thiện và noi theo nhân cách của đức Phật để trở thành một người con Phật xứng đáng.

Qua những lời Phật dạy chúng ta ghi nhận được rằng:

1. Có hai đức Phật trong đời này, một là đức Phật của lịch sử có ngày tháng năm sinh cách đây 2626 năm và hai là đức Phật thị hiện tức là đức Phật đã thành Phật trong đời này rồi mà còn trở lại đây nhiều lần vì sự thống khổ của chúng sanh.

Đức Phật của lịch sử là một người có thật đã sinh ra tại Ấn Độ cách nay 2626 năm tên là Sĩ Đạt Tha con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da của giòng họ Sakya tức là Thích Ca. Khi lớn lên, ngài có vợ tên là Da Du Đà La và con trai là La Hầu La. Đây là một lịch sử rất bình thường nhưng cái phi thường trong con người đó là sau khi có gia đình, nhận thức chân chánh và sâu sắc được tất cả cái khổ của cuộc đời qua “sinh, lão, bệnh, tử” khổ, “ái, biệt, ly” khổ, “thù, ghét, gặp gỡ” khổ, “thân, thể bại hoại” khổ, “cầu, muốn mà không được” khổ để rồi cuối cùng ngài đã từ bỏ cuộc sống của hương vị, của giàu sang, những luyến ái, thương yêu, khát vọng của chúng sanh để đi vào rừng già mà chịu 6 năm khổ hạnh, 5 năm tìm đạo và đã tìm ra con đường chân lý. Chân lý đây không phải là những gì kỳ tuyệt mà chỉ là sự thật của cuộc đời có nghĩa là tất cả những khổ đau, những chấp thủ trong thế giớingã và ngã sở hữu. Vì vậy chúng ta lăn lộn trong nhiều kiếp luân hồi và chịu vô lượng khổ đau. Sau 49 ngày ngồi duới cội cây Tất Bát La (sau gọi là cội Bồ Đề hoặc Bodhi), ngài đạt giác ngộthành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (trước khi giác ngộ chỉ là giòng họ Thích Ca hoặc Gotama).

• Như vậy, cái thành Phật của ngài là để chúng ta thấy rằng đức Phật cũng là một con người giống như chúng ta. Do đó khi thành Phật, ngài nói rằng: “Bây giờ ta đã thấy rõ người làm nhà, thấy rõ cái con người mà ta đã từng sanh tử luân hồi qua bao nhiêu kiếp cho nên cái người thợ làm nhà [những ham muốn, chấp thủ] không còn làm nhà được nữa vì tất cả những kèo cột đều gẫy hết cho nên hôm nay ta đã chiến thắng được ngươi. Chỉ có chiến thắng được mình thì đó mới là chiến công oanh liệt nhất.” Chúng ta nghe thì thấy là đơn giản nhưng cái công trình để tìm ra con đường của giác ngộ, cái sự hy sinh, lòng từ bi vô lượng của đức Phật khi vào đời rất là lớn và không thể diễn tả được vì không có ngôn ngữ nào để nói lên được sự cảm niệm cái công ơn sâu dầy của một người đã khai sinh ra một giáo lý mà có thể làm giác ngộ được toàn thể nhân loại.

2. Sau khi ngài thành Phật, ngài đã tuyên bố rằng: “Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” để nói là chúng ta đi trong luân hồi mà bất cứ lúc nào chúng ta giác ngộchấm dứt luân hồi thì chúng ta cũng sẽ thành Phật như ngài, giải thoát khổ đau như ngài vậy. Do đó chúng ta phải sách tấn tu hành và đừng nên coi thường cái khả năng giác ngộ của chúng ta ngay trong cái thế giới ngũ trược này (ngũ [5] trược [nhơ bẩn] là ác trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trượcmạng trược). Phật nói rằng: “Bởi vì chúng ta tự ti, mặc cảm, cứ nghĩ rằng chúng tachúng sanh nhưng nếu chúng ta thử buông xả hết những tham chấp của cá nhân, thương yêu hết mọi người, tha thứgần gủi mọi người thì chúng ta sẽ từ từ trở thành cao thượng.” 

• Có người hỏi là làm sao tìm ra được người đắc đạo trong ngày nay? Thật ra, người đắc đạo không phải là người thị hiện thần thông. Đức Phật đã nói là ngài biết thần thông nhưng không muốn biểu diễn để cho người sợ hải hoặc tin theo. Phật không huyền bí như chúng ta tưởng mà là một người rất bình thường. Đặc điểm của đạo Phật là Phật và các đệ tử của ngài đi vào đời với một đặc tính hoàn toàn bình đẳng. Vì vậy khi chúng ta gần gủi người mà đã thấm nhuần nhân cách đức Phật thì chúng ta cảm nhận được cái bình an của Phật chất nơi những vị đó.

• Cái quan trọng của người học Phật là chất bình an, không có sự chấp thủ cá nhân và không có sự tham muốn cá nhân. Cho nên ngày nào chúng ta còn tham muốn, còn phân biệt, còn đối xử nhiều thì ngày đó chúng ta còn cách xa Phật mặc dù trong chúng ta có đầy đủ Phật chất. Phật nói rằng: “Như Lai ra đời với một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là ngài ra đời để khai mở cho mọi người thấy được rằng ai cũng có những của báu và hãy xử dụng những của báu đó đúng với khả năng của nó.

3. Khi người ta hỏi về nguyên tắc của đạo Phật là gì thì các vị Tổ hoặc Thánh nhân trả lời rằng: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” tức là tất cả giáo lý đạo Phật chỉ gồm trong ba điều là đừng làm ác, cố gắng làm lành, tự thanh tịnh hoặc thanh lọc chính mình và đó là lời chư Phật dạy.

• Chư Phật gồm có Phật của quá khứ, Phật của hiện tại và Phật của tương lai. Khi không làm các điều ác thì chúng ta đã thiện rồi nhưng đây chỉ là phần thiện của tiêu cực, trong khi câu thứ hai “chúng thiện phụng hành” là phần thiện tích cực tức là chẳng những không làm điều ác mà những việc thiện dù nhỏ cũng không bỏ. Thí dụ như nhặt gai hoặc mảnh sành để người khác không đạp lên gọi là chúng thiện phụng hành trong khi không quăng gai ra đường là không làm ác nhưng điều thiện thì chưa làm. 

• Khi hiểu rõ thì chúng ta thấy rằng đạo Phật rất là tích cực. Cũng như đức Phật nói rằng cuộc đời là khổ đau không có nghĩa là bi quan, yếm thế mà cốt là cho thấy rằng chúng ta không nên tham đắm, say mê cuộc đời này để rồi tạo nên những khổ đau cho người khác mà phải luôn tỉnh giác để thấy cuộc đời này là vô thường, khổ đau, vô ngã và do đó phải “chúng thiện phụng hành” để làm tốt đẹp cho người xung quanh. Sau khi bỏ ác, làm thiện, chúng ta phải thanh lọc ý của mình có nghĩa là phải sám hối để lục căn được thanh tịnh.

4. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật nói rằng: “Giống như những tướng giỏi được vua ban thưởng minh châu, tất cả chúng sanh nếu tinh tấn tu học thì Phật cũng sẽ giao cho cái giá trị nhất của đạo Phậttrí tuệ của sự giác ngộ”, đây nói lên sự bình đẳng như nhau.

• Thời của đức Phật, Phật và các đệ tử của Phật cũng đã từng thể hiện sự bình đẳng giữa những giai cấp trong xã hội. Hôm nay chúng ta cũng vậy, trong ngày tưởng niệm đến đức Phật chúng ta hoàn toàn không có giai cấpchúng ta chỉ đồng có một tánh giác ngộ giống như nhau.

Chúng ta nên học nhân cách của Phật và của những vị Thánh tăng để trau dồi cái mỹ đức của chúng ta tức là cái đẹp của tánh nết, của lòng vị tha, của nhân ái, của tự trọng và kính nể mọi người. Khi tu sửa con người của chúng ta trở nên thánh thiện thì giữa ta và Phật không còn cách xa nữa. Có bài nguyện là: “Chúng con nguyện dứt bỏ dục tình ngoan cố, học đòi đức tánh hiền lương”. Cho nên người Phật tử không nhất thiết phải quy y, không phải thường xuyên đi chùa mà chỉ cần hiểu lời Phật dạy và sống xứng đáng với những giáo lý của Phật thì người đó là Phật tử chân chánh.

• Khi học Phật chúng ta thấy được những phần tích cực quan trọng hơn những phần tiêu cựcvì vậy chúng ta nên bỏ đi những tiêu cực để tập sống một cách khoáng đạt hơn. Đức Phật nói rằng: “Tất cả thế giới này nếu con người biết mở rộng tầm mắt ra bỏ đi những chấp ta, tự ngã thì con người sẽ nhận được tất cả những gì cao quí nhất của chân lý.” Là người con Phật chúng ta hiểu rằng khi sống một cách chân chánh thì chúng ta biết rằng có nhân thì có quả.

• Trước khi nhập Niết Bàn, Phật nói rằng: “Tất cả các đệ tử của ta đời nay và đời sau chỉ nhớ một điều là hãy luôn luôn tinh tấn để giác ngộ giải thoát, hãy làm như một con tuấn mã chạy ra khỏi những ý hèn của mình... Nếu các Phật tử cung kính Phật thì nên nhớ là cung kính không bằng gì là phụng mạng. Này các ngươi, đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi sự vật ở đời không có gì là quí giá, thân thể rồi sẽ rã tan. Chỉ có chân lý của ta nói là bất di, bất dịch. Cái đó làm cho các ngươi tự giải thoát khỏi khổ đau. Cho nên, này các ngươi, hãy tinh tấn lên, hãy tự nương tựa chính mình, đừng nương tựa ở một ai khác.” 

5. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật là vị trưởng giả kêu gọi các con ra khỏi nhà đang bị cháy và nếu chạy ra thì sẽ được ba loại xe đẹp. Nhưng khi các trẻ chạy ra thì chỉ có một xe trâu mà thôi. Đây cho chúng ta thấy rằng tất cả các pháp tu (thiền, tịnh độ, mật chú, v..v...) là để cho chúng ta chạy ra khỏi nhà lửa tam giới và khi ra khỏi nhà lửa thì các Phật tử chỉ thấy một xe duy nhất mà thôi. Có nghĩa là khi chúng ta từ bỏ hết những đam mê, tham ái, tự ngã thì tất cả mọi người đều bình đẳng giác ngộ giống như nhau và tất cả những pháp tu đều không có khác biệt. Vì vậy sự bình đẳng là một đặc thù của đạo Phật.
Bài thơ sau đây của thi sĩ Trụ Vũ tán dương về ngày Phật ra đời:
“Nửa khuya đức Phật vào đời
Trong đôi cánh hạc tuyệt vời lên trăng
Cành hoa muộn nở ngoài sân
Thoảng hương xa Phật đến gần trong hươu
Phật là hoa, Phật là hươu, Phật là trăng, là hạc,
là hồn của phương Đông”
Tất cả các nơi, tất cả những cái đẹp nhất trong thế giới này đều là Phật cả, có nghĩa đều là giác ngộ. Nhà thơ diễn tả về Phật tiếp theo như sau:

“Rạng ngày chim hót vườn Đông
Chở chuyên trên cánh hoa hồng âm thanh
Ba nghìn vô tự chân Kinh
Lắng nghe thoảng đến tai mình đơn sơ
Lời chim hót, tiếng quay tơ
Cả âm thinh, cả lặng tờ đều Kinh
Phật ngồi trong mắt thủy tinh
Phật thơm trên má cây quỳnh, cành giao
Phật phơ phất giữa hàng rào
Thắm hoa dâm bụt xôn xao nắng chiều
Phật là quê mẹ thương yêu
Kinh là những tiếng sáo diều của em
Ôi từ độ đá thành tên
Ôi từ độ đất lên nghìn cỏ hoa
Giọt cành sương, hạt mưa sa
Pháp âm dậy giữa phong ba ngọt ngào
Từng biển thấp, từng non cao
Ý chi không Phật, lời nào không Kinh”

Khi tâm không còn phiền não, chấp mắc nữa thì ai nói gì đối với mình cũng là Kinh. Có thương yêu, có hiểu biết thì lúc đó có Phật chất trong con người của chúng ta. Những gì của thương yêu, của dịu dàng đều là Phật, là Kinh. Đạo Phật là có tính chất giác ngộ, tính chất thức tỉnh trong mọi hành động, mọi lời nói và mọi ý nghĩ của con người. Cho nên mỗi người chúng ta đều có thể đem đạo Phật vào đời tức là đem những gì Phật nói và sống vào trong cuộc đời. Chỉ khi nào chúng ta tu chứng thì mới gọi là cúng dường Phật một cách cao thượng.

Trong ngày Phật Đản, chúng ta chỉ có sắm hương, hoa, quả thôi thì chưa làm tròn bổn phận. Chúng ta còn phải tưởng niệm đến công ơn của Phật, còn phải tự xét mình đã xứng đáng làm người Phật tử chưa, đã tiến bộ hơn trước chưa và chỉ khi nào con người chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn thì mới là đã và đang cúng dường Phật một cách cao thượng. 

Đức Phật có 10 danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân SưPhật Thế Tôn.

Như Lai: “Vô sở trùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”. Như Lainhư như, bất động có nghĩa là không từ đâu đến và cũng không đi về đâu, nhưng tùy duyên bất biến. Khi nào chúng ta tu hành thanh tịnh rồi thì sẽ thấy rằng hiện tại đức Phật đang ở tại ngay đây và đang thuyết pháp tại đây. Lý do chúng ta không thấy được là vì con mắt của chúng ta có quá nhiều chướng nạn có nghĩa là bị che mờ bởi vô minh.

Ứng cúng: Người mà xứng đáng được cúng dường

Chánh biến tri: Sự hiểu biết chân chánh của Phật về tất cả các pháp trên thế gian.

Minh Hạnh Túc: Trí tuệhạnh nguyện của Phật đều đầy đủ. Một danh từ khác là Lưỡng Túc Tôn có nghĩa là phước túc và huệ túc.

Thiện Thệ: Khéo vượt qua và qua lại cõi sinh tửNiết Bàn một cách dễ dàng.

Thế Gian Giải: Khi Phật còn tại thế, ngài có thể giải thích rõ ràng hết tất cả những sự việc xảy ra trong không gianthời gian với chư Tăng, chư Phật tử, mọi loài chúng sinh.

Vô Thượng Sĩ: Sự học và thành tựu của ngài đều do ngài tự chứng ngộ và không có thầy nào khác trên ngài.

Điều Ngự Trượng Phu: Bậc trượng phu có thể điều ngự hoặc điều khiển chính mình. Cho nên khi Phật giác ngộ ngài tuyên bố rằng: “Chiến thắng vạn quân không bằng chiến thắng lấy mình. Chiến thắng lấy mình đó là chiến công oanh liệt nhất.” Khi làm chủ được chính mình thì làm chủ được tất cả các pháp.

Thiên Nhân Sư : Phật xứng đáng làm thầy của trời và người.

Phật: Phật là giác giả tức là giác ngộ hoàn toàn (tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn).
Thế Tôn: Có nghĩa là do nhân thế tôn xưng ngài với 10 danh hiệu trên, không phải do chính ngài tự tôn xưng.

Chúng ta về chùa để cảm nhận cái tình cảm thân thiết của con người, cái tình thương bình đẳng của đức Phật đến với tất cả muôn loài.

Chùa là bóng mát quê hương
Là nơi chan chứa tình thương đậm đà
hay là
Mỗi người, mỗi nước, mỗi non
Bước vào cửa đạo như con một nhà

Không phải chỉ riêng ngày Phật Đản mà là bất cứ ngày nào trong đời, chúng ta nên mang Phật chất vào đời bằng cách sống vị tha, nhân ngã và phải biết rằng thế giới này chỉ là tạm bợ mà thôi. Do đó chúng ta phải trồng hạt giống tốt để dù cho có đi đến thế giới nào đi nữa hoặc trở lại cõi này, cuộc sống của chúng ta cũng vẫn luôn cao thượng và tốt đẹp hơn. Nói một cách khác, chúng ta phải làm sao để lúc nào cũng thấy Phật, thấy pháp, nghe Kinh thì như vậy là chúng ta đem đạo Phật vào đời.

Đức Phật nhập Niết Bàn 2546 năm và Phật đản sinh 2626 năm nhưng cái hương vị ngài trao truyền cho tất cả đều bình đẳng như nhau. Nếu như chúng ta nhớ tưởng, tôn kính đến đức Phật thì chúng ta cảm nhận được cái hạnh phúc được làm đệ tử của ngài. Chúng ta hãy phát nguyện tự tìm về chính mình, tự giác ngộ, tự tìm Phật chất của chính mình, và trong những thời gian nào của riêng mình thì chúng ta hãy tự tịnh kỳ ý. Như vậy là chúng ta đã vâng lời dạy của chư Phật và đã cúng dường chư Phật. Ý nghĩa quan trọng nhất trong ngày Phật Đản là “ngày Đản Sanh (ngày rằm tháng Tư) của đức Phật Thích Ca Mâu Ni không có ý nghĩa bất diệt, bất tử của nó, nhưng chính những gì Phật làm cho thế gian này sau khi ngài sanh ra làm cho ngày Đản Sanh trở nên bất diệt.”

Mừng Phật Đản trong tinh thần hòa hợp, hiểu biết, thương yêu và sống mang lại những hạnh phúc cao thượng nhất mà ánh sáng đạo Phật đã mang lại cho chúng ta.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
(Mừng Lễ Phật Đản PL 2546 (TL 2002) tại Minh Quang Thiền Viện, 30-32 Chadderton Street, Canley Vale, Sydney, NSW 2166, Australia -- http://www.minhquangthienvien.com)

(Do Diệu Mỹ trích từ băng giảng của Tỳ Kheo Thích Minh Hiếu.) 

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31673)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12760)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10813)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10822)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22973)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11500)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10688)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10026)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10333)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11923)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9817)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11276)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12635)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9705)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10462)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10569)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9910)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11061)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10147)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14527)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12557)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10427)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10562)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8809)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10522)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9197)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9698)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9419)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9021)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14762)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8953)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8976)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8745)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9371)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14602)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9042)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8778)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9050)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8644)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9005)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9474)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8006)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9271)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10340)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9584)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21404)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19243)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26049)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10636)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9535)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12367)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10758)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9274)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9393)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15905)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant