Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật vào đời

09 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10912)
Đức Phật vào đời

ĐỨC PHẬT VÀO ĐỜI
Tỳ Kheo Thích Minh Hiếu

Trong Kinh Pháp Cú, Phật nói rằng: “Có 4 cái hạnh phúc chân thật, đó là hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh”, bởi vì nơi nào mà có chư Phật giáng sinh thì nơi đó sẽ mang lại nguồn lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho chư thiênloài người. Tại sao chúng ta gọi là ngày giáng sinh hoặc đản sinh? Đản có nghĩa là vui vẻ, hân hoan, lợi ích cho nên ngày đức Phật sinh ra đời là ngày làm cho người hân hoan, vui vẻ. Đó là nguyên nhân mà mỗi mùa Phật Đản những người con Phật chào mừng ngày đức Từ Phụ ra đời với tinh thần thương yêu, hòa ái. Cờ Phật Giáo có 5 màu, và khi xưa người ta làm cờ với quan điểm là 5 màu thể hiện cho 5 châu nhưng về sau địa cầu có tất cả 6 đại châuPhật Giáo đều đến và làm cho tất cả xứ sở an ổn, hòa bình. 

Trong lịch sử truyền bá của Phật Giáo, đạo Phật đi tất cả các nơi trên thế giới để chia xẻ niềm đau thương của chúng sanhchưa bao giờ đổ máu bởi những cuộc chiến tranh trong vai trò truyền giáo. Hôm nay chúng ta tưởng niệm ngày đản sinh của đức Phật để chia xẻ niềm vui mà Phật đã nói trong Kinh Pháp Cú tức là “hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh.” Chữ giáng sinh mang cái ý nghĩa cao thượng tức là một bậc tu hành nhiều kiếp thị hiện xuống trần gian làm một chúng sanh như chúng ta để chia xẻ nỗi cơ cực, thống khổ triền miên của kiếp con ngườitrở thành bậc giác ngộ. Còn chúng ta thì gọi là được sinh ra trong đời này do cái nghiệp lực bởi ái dục, bởi thương yêu cho nên chúng ta chịu nhiều khổ đau cả ý niệm lẫn tâm thức.

Trong cái hình ảnh sơ sinh của Phật thì chúng ta thấy rằng Phật cũng như bao nhiêu đứa trẻ khác cũng sinh ra, lớn lên và già chết. Nhưng cái quan trọng của Phật mang vào cuộc đờigiáo lý và những tư duy làm cho cuộc đời trở nên thánh thiện. Cho nên khi chúng ta mừng ngày đản sinh của đức Phậtchúng ta tưởng nhớ đến công đức của một người đã đi vào cuộc đời này và mặc dù người ấy đã đi qua cuộc đời này 2626 năm, nhưng những gì người đó để lại cho đời quá rực rỡ, quá tốt đẹp để con người ngưỡng vọng, tưởng niệm, tôn kínhtrở thành một bậc vĩ nhân của nhân loại.

Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này để mở ra một con đường giáo lý, con đường giác ngộ gọi là đạo Phật. Chánh pháp là những giáo lý chân chánh làm cho con người bỏ khổ, trừ mê và cuối cùng thành tựu giác ngộ. Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chánh pháp sẽ ra sao? Vì vậy Phật nói: “Hạnh phúc thay Tăng già hòa hiệp” tức là những đòan thể, những vị tu hành đã thệ nguyện đi theo con đường của đức Phật và tập sống giống như đức Phật để hướng dẫn giáo lý của Phật cho tất cả chúng sanh, gọi là Ưu Bà TắcƯu Bà Di, trở thành người Phật tử chân chánh. Điều quan trọng sau cùng Phật gởi đến chúng ta là: “Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu” tức là mọi người cùng tu để giải thoát những khổ đau, giải trừ những tham vọng, những si mê trong cuộc đời thống khổ này. Tứ chúng gồm có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà TắcƯu Bà Di, cận sự namcận sự nữ. Tứ chúng xây dựng đạo Phật để đi vào cuộc đời cho nên Phật nói đó là niềm hạnh phúc.

Niềm hân hoan chúng ta đón nhận trong ngày Phật Đản nếu có ca hát thì là những bài nhạc thánh thiện khuyến khích những người con Phật nên tinh tấn, nổ lực tu hành, và nếu không thì vẫn có những tấm lòng chân thành tưởng niệm đến công đức của ngài. Nhớ tưởng một cách chân chánh đến đức Phật không có gì hơn là sống thánh thiện và noi theo nhân cách của đức Phật để trở thành một người con Phật xứng đáng.

Qua những lời Phật dạy chúng ta ghi nhận được rằng:

1. Có hai đức Phật trong đời này, một là đức Phật của lịch sử có ngày tháng năm sinh cách đây 2626 năm và hai là đức Phật thị hiện tức là đức Phật đã thành Phật trong đời này rồi mà còn trở lại đây nhiều lần vì sự thống khổ của chúng sanh.

Đức Phật của lịch sử là một người có thật đã sinh ra tại Ấn Độ cách nay 2626 năm tên là Sĩ Đạt Tha con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da của giòng họ Sakya tức là Thích Ca. Khi lớn lên, ngài có vợ tên là Da Du Đà La và con trai là La Hầu La. Đây là một lịch sử rất bình thường nhưng cái phi thường trong con người đó là sau khi có gia đình, nhận thức chân chánh và sâu sắc được tất cả cái khổ của cuộc đời qua “sinh, lão, bệnh, tử” khổ, “ái, biệt, ly” khổ, “thù, ghét, gặp gỡ” khổ, “thân, thể bại hoại” khổ, “cầu, muốn mà không được” khổ để rồi cuối cùng ngài đã từ bỏ cuộc sống của hương vị, của giàu sang, những luyến ái, thương yêu, khát vọng của chúng sanh để đi vào rừng già mà chịu 6 năm khổ hạnh, 5 năm tìm đạo và đã tìm ra con đường chân lý. Chân lý đây không phải là những gì kỳ tuyệt mà chỉ là sự thật của cuộc đời có nghĩa là tất cả những khổ đau, những chấp thủ trong thế giớingã và ngã sở hữu. Vì vậy chúng ta lăn lộn trong nhiều kiếp luân hồi và chịu vô lượng khổ đau. Sau 49 ngày ngồi duới cội cây Tất Bát La (sau gọi là cội Bồ Đề hoặc Bodhi), ngài đạt giác ngộthành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (trước khi giác ngộ chỉ là giòng họ Thích Ca hoặc Gotama).

• Như vậy, cái thành Phật của ngài là để chúng ta thấy rằng đức Phật cũng là một con người giống như chúng ta. Do đó khi thành Phật, ngài nói rằng: “Bây giờ ta đã thấy rõ người làm nhà, thấy rõ cái con người mà ta đã từng sanh tử luân hồi qua bao nhiêu kiếp cho nên cái người thợ làm nhà [những ham muốn, chấp thủ] không còn làm nhà được nữa vì tất cả những kèo cột đều gẫy hết cho nên hôm nay ta đã chiến thắng được ngươi. Chỉ có chiến thắng được mình thì đó mới là chiến công oanh liệt nhất.” Chúng ta nghe thì thấy là đơn giản nhưng cái công trình để tìm ra con đường của giác ngộ, cái sự hy sinh, lòng từ bi vô lượng của đức Phật khi vào đời rất là lớn và không thể diễn tả được vì không có ngôn ngữ nào để nói lên được sự cảm niệm cái công ơn sâu dầy của một người đã khai sinh ra một giáo lý mà có thể làm giác ngộ được toàn thể nhân loại.

2. Sau khi ngài thành Phật, ngài đã tuyên bố rằng: “Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” để nói là chúng ta đi trong luân hồi mà bất cứ lúc nào chúng ta giác ngộchấm dứt luân hồi thì chúng ta cũng sẽ thành Phật như ngài, giải thoát khổ đau như ngài vậy. Do đó chúng ta phải sách tấn tu hành và đừng nên coi thường cái khả năng giác ngộ của chúng ta ngay trong cái thế giới ngũ trược này (ngũ [5] trược [nhơ bẩn] là ác trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trượcmạng trược). Phật nói rằng: “Bởi vì chúng ta tự ti, mặc cảm, cứ nghĩ rằng chúng tachúng sanh nhưng nếu chúng ta thử buông xả hết những tham chấp của cá nhân, thương yêu hết mọi người, tha thứgần gủi mọi người thì chúng ta sẽ từ từ trở thành cao thượng.” 

• Có người hỏi là làm sao tìm ra được người đắc đạo trong ngày nay? Thật ra, người đắc đạo không phải là người thị hiện thần thông. Đức Phật đã nói là ngài biết thần thông nhưng không muốn biểu diễn để cho người sợ hải hoặc tin theo. Phật không huyền bí như chúng ta tưởng mà là một người rất bình thường. Đặc điểm của đạo Phật là Phật và các đệ tử của ngài đi vào đời với một đặc tính hoàn toàn bình đẳng. Vì vậy khi chúng ta gần gủi người mà đã thấm nhuần nhân cách đức Phật thì chúng ta cảm nhận được cái bình an của Phật chất nơi những vị đó.

• Cái quan trọng của người học Phật là chất bình an, không có sự chấp thủ cá nhân và không có sự tham muốn cá nhân. Cho nên ngày nào chúng ta còn tham muốn, còn phân biệt, còn đối xử nhiều thì ngày đó chúng ta còn cách xa Phật mặc dù trong chúng ta có đầy đủ Phật chất. Phật nói rằng: “Như Lai ra đời với một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là ngài ra đời để khai mở cho mọi người thấy được rằng ai cũng có những của báu và hãy xử dụng những của báu đó đúng với khả năng của nó.

3. Khi người ta hỏi về nguyên tắc của đạo Phật là gì thì các vị Tổ hoặc Thánh nhân trả lời rằng: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” tức là tất cả giáo lý đạo Phật chỉ gồm trong ba điều là đừng làm ác, cố gắng làm lành, tự thanh tịnh hoặc thanh lọc chính mình và đó là lời chư Phật dạy.

• Chư Phật gồm có Phật của quá khứ, Phật của hiện tại và Phật của tương lai. Khi không làm các điều ác thì chúng ta đã thiện rồi nhưng đây chỉ là phần thiện của tiêu cực, trong khi câu thứ hai “chúng thiện phụng hành” là phần thiện tích cực tức là chẳng những không làm điều ác mà những việc thiện dù nhỏ cũng không bỏ. Thí dụ như nhặt gai hoặc mảnh sành để người khác không đạp lên gọi là chúng thiện phụng hành trong khi không quăng gai ra đường là không làm ác nhưng điều thiện thì chưa làm. 

• Khi hiểu rõ thì chúng ta thấy rằng đạo Phật rất là tích cực. Cũng như đức Phật nói rằng cuộc đời là khổ đau không có nghĩa là bi quan, yếm thế mà cốt là cho thấy rằng chúng ta không nên tham đắm, say mê cuộc đời này để rồi tạo nên những khổ đau cho người khác mà phải luôn tỉnh giác để thấy cuộc đời này là vô thường, khổ đau, vô ngã và do đó phải “chúng thiện phụng hành” để làm tốt đẹp cho người xung quanh. Sau khi bỏ ác, làm thiện, chúng ta phải thanh lọc ý của mình có nghĩa là phải sám hối để lục căn được thanh tịnh.

4. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật nói rằng: “Giống như những tướng giỏi được vua ban thưởng minh châu, tất cả chúng sanh nếu tinh tấn tu học thì Phật cũng sẽ giao cho cái giá trị nhất của đạo Phậttrí tuệ của sự giác ngộ”, đây nói lên sự bình đẳng như nhau.

• Thời của đức Phật, Phật và các đệ tử của Phật cũng đã từng thể hiện sự bình đẳng giữa những giai cấp trong xã hội. Hôm nay chúng ta cũng vậy, trong ngày tưởng niệm đến đức Phật chúng ta hoàn toàn không có giai cấpchúng ta chỉ đồng có một tánh giác ngộ giống như nhau.

Chúng ta nên học nhân cách của Phật và của những vị Thánh tăng để trau dồi cái mỹ đức của chúng ta tức là cái đẹp của tánh nết, của lòng vị tha, của nhân ái, của tự trọng và kính nể mọi người. Khi tu sửa con người của chúng ta trở nên thánh thiện thì giữa ta và Phật không còn cách xa nữa. Có bài nguyện là: “Chúng con nguyện dứt bỏ dục tình ngoan cố, học đòi đức tánh hiền lương”. Cho nên người Phật tử không nhất thiết phải quy y, không phải thường xuyên đi chùa mà chỉ cần hiểu lời Phật dạy và sống xứng đáng với những giáo lý của Phật thì người đó là Phật tử chân chánh.

• Khi học Phật chúng ta thấy được những phần tích cực quan trọng hơn những phần tiêu cựcvì vậy chúng ta nên bỏ đi những tiêu cực để tập sống một cách khoáng đạt hơn. Đức Phật nói rằng: “Tất cả thế giới này nếu con người biết mở rộng tầm mắt ra bỏ đi những chấp ta, tự ngã thì con người sẽ nhận được tất cả những gì cao quí nhất của chân lý.” Là người con Phật chúng ta hiểu rằng khi sống một cách chân chánh thì chúng ta biết rằng có nhân thì có quả.

• Trước khi nhập Niết Bàn, Phật nói rằng: “Tất cả các đệ tử của ta đời nay và đời sau chỉ nhớ một điều là hãy luôn luôn tinh tấn để giác ngộ giải thoát, hãy làm như một con tuấn mã chạy ra khỏi những ý hèn của mình... Nếu các Phật tử cung kính Phật thì nên nhớ là cung kính không bằng gì là phụng mạng. Này các ngươi, đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi sự vật ở đời không có gì là quí giá, thân thể rồi sẽ rã tan. Chỉ có chân lý của ta nói là bất di, bất dịch. Cái đó làm cho các ngươi tự giải thoát khỏi khổ đau. Cho nên, này các ngươi, hãy tinh tấn lên, hãy tự nương tựa chính mình, đừng nương tựa ở một ai khác.” 

5. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật là vị trưởng giả kêu gọi các con ra khỏi nhà đang bị cháy và nếu chạy ra thì sẽ được ba loại xe đẹp. Nhưng khi các trẻ chạy ra thì chỉ có một xe trâu mà thôi. Đây cho chúng ta thấy rằng tất cả các pháp tu (thiền, tịnh độ, mật chú, v..v...) là để cho chúng ta chạy ra khỏi nhà lửa tam giới và khi ra khỏi nhà lửa thì các Phật tử chỉ thấy một xe duy nhất mà thôi. Có nghĩa là khi chúng ta từ bỏ hết những đam mê, tham ái, tự ngã thì tất cả mọi người đều bình đẳng giác ngộ giống như nhau và tất cả những pháp tu đều không có khác biệt. Vì vậy sự bình đẳng là một đặc thù của đạo Phật.
Bài thơ sau đây của thi sĩ Trụ Vũ tán dương về ngày Phật ra đời:
“Nửa khuya đức Phật vào đời
Trong đôi cánh hạc tuyệt vời lên trăng
Cành hoa muộn nở ngoài sân
Thoảng hương xa Phật đến gần trong hươu
Phật là hoa, Phật là hươu, Phật là trăng, là hạc,
là hồn của phương Đông”
Tất cả các nơi, tất cả những cái đẹp nhất trong thế giới này đều là Phật cả, có nghĩa đều là giác ngộ. Nhà thơ diễn tả về Phật tiếp theo như sau:

“Rạng ngày chim hót vườn Đông
Chở chuyên trên cánh hoa hồng âm thanh
Ba nghìn vô tự chân Kinh
Lắng nghe thoảng đến tai mình đơn sơ
Lời chim hót, tiếng quay tơ
Cả âm thinh, cả lặng tờ đều Kinh
Phật ngồi trong mắt thủy tinh
Phật thơm trên má cây quỳnh, cành giao
Phật phơ phất giữa hàng rào
Thắm hoa dâm bụt xôn xao nắng chiều
Phật là quê mẹ thương yêu
Kinh là những tiếng sáo diều của em
Ôi từ độ đá thành tên
Ôi từ độ đất lên nghìn cỏ hoa
Giọt cành sương, hạt mưa sa
Pháp âm dậy giữa phong ba ngọt ngào
Từng biển thấp, từng non cao
Ý chi không Phật, lời nào không Kinh”

Khi tâm không còn phiền não, chấp mắc nữa thì ai nói gì đối với mình cũng là Kinh. Có thương yêu, có hiểu biết thì lúc đó có Phật chất trong con người của chúng ta. Những gì của thương yêu, của dịu dàng đều là Phật, là Kinh. Đạo Phật là có tính chất giác ngộ, tính chất thức tỉnh trong mọi hành động, mọi lời nói và mọi ý nghĩ của con người. Cho nên mỗi người chúng ta đều có thể đem đạo Phật vào đời tức là đem những gì Phật nói và sống vào trong cuộc đời. Chỉ khi nào chúng ta tu chứng thì mới gọi là cúng dường Phật một cách cao thượng.

Trong ngày Phật Đản, chúng ta chỉ có sắm hương, hoa, quả thôi thì chưa làm tròn bổn phận. Chúng ta còn phải tưởng niệm đến công ơn của Phật, còn phải tự xét mình đã xứng đáng làm người Phật tử chưa, đã tiến bộ hơn trước chưa và chỉ khi nào con người chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn thì mới là đã và đang cúng dường Phật một cách cao thượng. 

Đức Phật có 10 danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân SưPhật Thế Tôn.

Như Lai: “Vô sở trùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”. Như Lainhư như, bất động có nghĩa là không từ đâu đến và cũng không đi về đâu, nhưng tùy duyên bất biến. Khi nào chúng ta tu hành thanh tịnh rồi thì sẽ thấy rằng hiện tại đức Phật đang ở tại ngay đây và đang thuyết pháp tại đây. Lý do chúng ta không thấy được là vì con mắt của chúng ta có quá nhiều chướng nạn có nghĩa là bị che mờ bởi vô minh.

Ứng cúng: Người mà xứng đáng được cúng dường

Chánh biến tri: Sự hiểu biết chân chánh của Phật về tất cả các pháp trên thế gian.

Minh Hạnh Túc: Trí tuệhạnh nguyện của Phật đều đầy đủ. Một danh từ khác là Lưỡng Túc Tôn có nghĩa là phước túc và huệ túc.

Thiện Thệ: Khéo vượt qua và qua lại cõi sinh tửNiết Bàn một cách dễ dàng.

Thế Gian Giải: Khi Phật còn tại thế, ngài có thể giải thích rõ ràng hết tất cả những sự việc xảy ra trong không gianthời gian với chư Tăng, chư Phật tử, mọi loài chúng sinh.

Vô Thượng Sĩ: Sự học và thành tựu của ngài đều do ngài tự chứng ngộ và không có thầy nào khác trên ngài.

Điều Ngự Trượng Phu: Bậc trượng phu có thể điều ngự hoặc điều khiển chính mình. Cho nên khi Phật giác ngộ ngài tuyên bố rằng: “Chiến thắng vạn quân không bằng chiến thắng lấy mình. Chiến thắng lấy mình đó là chiến công oanh liệt nhất.” Khi làm chủ được chính mình thì làm chủ được tất cả các pháp.

Thiên Nhân Sư : Phật xứng đáng làm thầy của trời và người.

Phật: Phật là giác giả tức là giác ngộ hoàn toàn (tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn).
Thế Tôn: Có nghĩa là do nhân thế tôn xưng ngài với 10 danh hiệu trên, không phải do chính ngài tự tôn xưng.

Chúng ta về chùa để cảm nhận cái tình cảm thân thiết của con người, cái tình thương bình đẳng của đức Phật đến với tất cả muôn loài.

Chùa là bóng mát quê hương
Là nơi chan chứa tình thương đậm đà
hay là
Mỗi người, mỗi nước, mỗi non
Bước vào cửa đạo như con một nhà

Không phải chỉ riêng ngày Phật Đản mà là bất cứ ngày nào trong đời, chúng ta nên mang Phật chất vào đời bằng cách sống vị tha, nhân ngã và phải biết rằng thế giới này chỉ là tạm bợ mà thôi. Do đó chúng ta phải trồng hạt giống tốt để dù cho có đi đến thế giới nào đi nữa hoặc trở lại cõi này, cuộc sống của chúng ta cũng vẫn luôn cao thượng và tốt đẹp hơn. Nói một cách khác, chúng ta phải làm sao để lúc nào cũng thấy Phật, thấy pháp, nghe Kinh thì như vậy là chúng ta đem đạo Phật vào đời.

Đức Phật nhập Niết Bàn 2546 năm và Phật đản sinh 2626 năm nhưng cái hương vị ngài trao truyền cho tất cả đều bình đẳng như nhau. Nếu như chúng ta nhớ tưởng, tôn kính đến đức Phật thì chúng ta cảm nhận được cái hạnh phúc được làm đệ tử của ngài. Chúng ta hãy phát nguyện tự tìm về chính mình, tự giác ngộ, tự tìm Phật chất của chính mình, và trong những thời gian nào của riêng mình thì chúng ta hãy tự tịnh kỳ ý. Như vậy là chúng ta đã vâng lời dạy của chư Phật và đã cúng dường chư Phật. Ý nghĩa quan trọng nhất trong ngày Phật Đản là “ngày Đản Sanh (ngày rằm tháng Tư) của đức Phật Thích Ca Mâu Ni không có ý nghĩa bất diệt, bất tử của nó, nhưng chính những gì Phật làm cho thế gian này sau khi ngài sanh ra làm cho ngày Đản Sanh trở nên bất diệt.”

Mừng Phật Đản trong tinh thần hòa hợp, hiểu biết, thương yêu và sống mang lại những hạnh phúc cao thượng nhất mà ánh sáng đạo Phật đã mang lại cho chúng ta.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
(Mừng Lễ Phật Đản PL 2546 (TL 2002) tại Minh Quang Thiền Viện, 30-32 Chadderton Street, Canley Vale, Sydney, NSW 2166, Australia -- http://www.minhquangthienvien.com)

(Do Diệu Mỹ trích từ băng giảng của Tỳ Kheo Thích Minh Hiếu.) 

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25653)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37871)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19588)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14258)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20100)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9504)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14372)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35567)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10654)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10746)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20220)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10604)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9965)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14877)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17655)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17598)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13190)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31164)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25759)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13981)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17507)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10978)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12290)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10469)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12270)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11757)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9615)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12354)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9196)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8494)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9961)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12033)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14419)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9900)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11207)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14085)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15207)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13038)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23076)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23988)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12572)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15428)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17786)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15053)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16555)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17639)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11590)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11619)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17825)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10782)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10519)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11049)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9678)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34711)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17264)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10243)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12198)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13635)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14669)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9149)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10315)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15941)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15571)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18356)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18520)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18587)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19017)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13344)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47989)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11065)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13549)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13037)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12554)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31772)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11670)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant