Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Lịch Sử Tào Động Tông

11 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11533)
4. Lịch Sử Tào Động Tông

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương một: 
Tôn Giáo của Chúng Ta 
Tào Động Tông 

II. Tào Động TôngLịch Sử Hình Thành

II.4 Lịch Sử Tào Động Tông 

II.4.1 Ngay Sau Thời Ngài Đạo Nguyên Thiền Sư – Giữa Thời Kỳ Kamakura (Kiêm Thương)

Lịch sử của Tông Tào Động rất đặc biệt, phải nói rằng khởi nguyên từ Thiền Sư Đạo Nguyên, hoằng dương pháp môn Tọa Thiền. Ngài có 80 đệ tử, nhưng sách vở ghi lại chỉ năm, sáu vị hữu danh mà thôi. Thiền Sư Hoài Tráng là người trụ trì thứ hai Chùa Vĩnh Bình. Thiền Sư Nghĩa Giới là người trụ trì thứ ba và khai sơn Chùa Đại Thừa. Thiền Sư Nghĩa Diễn (Gien). là người trụ trì thứ tư Chùa Vĩnh Bình. Thiền Sư Hàn Nham Nghĩa Doãn (Kangan Giin) khai sơn chùa Đại Từ ở huyện Kumamoto.Thiền Sư Tịch Viên khai sơn Chùa Bảo Khánh ở Việt Tiền, huyện Fukui, phố Đại Dã. Thiền Sư Thuyên Huê (Senne) khai sơn Chùa Vĩnh Hưng, Kyoto và Thiền Sư Kinh Hào (Kyogo) v.v...

Sau khi Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch, Thiền Sư Hoài Tráng kế thừa trù trì Chùa Vĩnh Bình 50 năm. Chân thành niệm ân đức và để bày tỏ lòng hiếu kính đối với Thiền Sư Đạo Nguyên, Ngài chỉnh lý lại trên 110 tác phẩm mà Ngài Đạo Nguyên biên soạn để lưu truyền cho hậu thế cho đến ngày nay.
Thiền Sư Nghĩa Giới kế thừa trách nhiệm trụ trì Chùa Vĩnh Bình từ Thiền Sư Hoài Tráng, thời gian Ngài Trụ Trì, bề ngoài trông thấy vẽ tốt đẹp nhưng bên trong nội bộ Chùa Vĩnh Bình có nhiều vấn đề, thật nhiều khổ tâm, phiền muộn chung quy cũng chỉ vì cảm tình, bè phái, ganh tỵ, hiềm khích v.v.., ảnh hưởng cuộc chiến Trung – Nhật. Chính những điều đó khiến cho Ngài phải rời Chùa Vĩnh Bình hạ sơn khai sơn Chùa Đại ThừaGia Hạ, huyện Ishikawa, trở thành vị Sơ Tổ chùa nầy.

Thiền Sư Nghĩa Diễn kế nhiệm chức vụ Trụ Trì Chùa Vĩnh Bình từ Thiền Sư Nghĩa Giới vào thời kỳ đầy khó khăn mà kết quả những cuộc phân tranh đưa đến như thiếu sự cúng dường ủng hộ của đàn na tín thí, kinh tế sa sút, đời sống thiếu thốn. Nhờ Thiền Sư Hàn Nham Nghĩa Y, người có đến hai lần sang Trung Hoa tu học. Về Nhật, Ngài khai sơn Chùa Đại Từ, vận động Phật Tử cúng dường thiên Tăng (1000 vị tăng) ở Giá Kiều, Can Thạch. Ngài dấn thân vào mọi hoạt động phúc lợi cho dân chúng, giương cao ngọn đuốc Thiền tại Kyushu. 

Thiền Sư Tịch Viên (Jakuen) là người Trung Hoa, quy y Tam Bảo xuất gia trở thành Tăng. Sau khi Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch, Ngài quy ẩn trong núi cao vắng vẽ suốt 30 năm. Sau đó, ra khai sơn chùa Bảo Khánh. Ngài là người nổi tiếng gìn giữ Tông phong, sống đời sống xuất gia thuần tịnh cao khiết. Nhờ phong cách thanh tịnh của Thiền Sư Tịch Viên, Chùa Vĩnh Bình được duy trì trải qua một thời gian dài hơn 300 năm suốt thời Giang Hộ (Edo).

Thiền Sư Thuyên Huệ và Thiền Sư Kinh Hào đến Kyoto sáng lập Chùa Vĩnh Hưng nghiên cứu tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, để giảng dạy tư tưởng Phật học của Thiền Sư Đạo Nguyên cho tín đồ Kyoto. Hai Ngài để lại 30 tác phẩm phân tích “Chánh Pháp Nhãn Tạng Ngự Sao”, những tác phẩm nầy được xem là xưa nhất, bình giải “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, được đời sau vô cùng trân quý. 

Như vậy, những vị đệ tử cốt cán nầy của Thiền Sư Đạo Nguyên đã hoằng dương chánh pháptruyền bá lập trường sinh hoạt hơn 700 năm kể từ khi Bổn Sư viên tịch, cho đến ngày nay, mạng mạch ấy vẫn còn tiếp tục lưu truyền.

II.4.2 Lập Trường Của Ngài Oánh Sơn Thiền SưThời Kỳ sau Thời Kamakura

Thiền Sư Oánh Sơn, như trên đã nói, là người kế thừa mạng mạch và tô bồi cho Tào Động Tông ngày càng rõ nét. Thiền Sư Oánh Sơn đã đăng trường như là một đệ tử ưu tú, hết lòng kính yêu Bổn Sư, Thiền Sư Nghĩa Giới, vị trụ trì đời thứ 3 Chùa Vĩnh Bình, khai sơn chùa Đại Thừa, xa hơn kế tục tinh thần của Thiền Sư Hoài Tráng, trụ trì đời thứ 2 chùa Vĩnh Bình. 

Thiền Sư Oánh Sơn cũng kế thừa Phật sự tại Chùa Đại Thừa, xây dựng Chùa Vĩnh Quang, Chùa Tổng Trì, đặc biệt sử dụng hai Chùa Vĩnh Quang và Tổng Trì làm cơ sở hoằng pháptu học. Ngài vừa giữ gìn giáo huấn của Thiền Sư Đạo Nguyên vừa dấn thân vào những phương diện quần chúng một cách tế nhị và sâu sắc. Hai đệ tử của Ngài là Thiền Sư Minh Phong và Thiền Sư Nga Sơn, được huấn dục và tích tập công đức tu tập vô cùng to lớn.

Thiền Sư Minh Phong có đến 26 người đệ tử, trong đó có khoảng 12 đệ xuất sắc, còn gọi là 12 môn phái của Thiền Sư Minh Phong. Chùa Đại Thừa tựVĩnh Quang tự trở thành trung tâm của Tông Phái, xung quanh có nhiều tự viện khác hổ tương cho nhau. Những địa phương như Bắc Lục, Đông Bắc, Cửu Châu v.v... Tông Phái cũng được phát triển một cách mạnh mẽ trong việc giảng dạy Phật Pháp và hướng dẫn pháp môn Tọa Thiền bằng tiếng Nhật.

Thiền Sư Nga Sơn giữ trách nhiệm trụ trì Chùa Tổng Trì hơn 40 năm, nuôi dưỡng 25 đệ tử (còn gọi là Nga Sơn có 25 nhánh) thành đạt. Thời Ngài, Chùa Tổng Trì được xem là trung tâm chính. Như Thiền Sư Minh Phong, Ngài cũng quy định xây dựng cơ sở Chùa Viện theo quy cách thích hợp nhất định. Tại Chùa Tổng Trì, lập trường của Thiền Sư Nga Sơn cũng đuợc tôn trọng như Thiền Sư Oánh Sơn, có khi xưng tán: “Oánh Nga Sơn Lưỡng Tôn”.

Như Thiền Sư Oánh Sơn, Thiền Sư Nga Sơn hoằng dương giáo lý cũng như tư tưởng và hướng dẫn pháp môn Tọa Thiền của Thiền Sư Đạo Nguyên. Như Thiền sư Minh Phong, một mặt Ngài đem đạo Pháp trồng sâu vào đời sống tâm linh, một mặt dùng tiếng Nhật phân tích, lý giải Thiền Tào Động qua “Thuyết Ngũ Vị” của Trung Hoa, để duy trì Chùa Viện, tạo mối quan hệ vững chắc với tín đồ. Giáo nghĩa Thiền được đại chúng hóa, nhưng không bị quyền lực thế gian chi phối. Về sau, giáo đoàn Tào Động được gọi là “Tào Động Thổ Dân”, động cơ chính tạo thành phong thái cơ bản của giáo đoàn.
Những đệ tử của Thiền Sư Nga Sơn ở Chùa Tổng Trì chia nhau đi hoằng hóa các nơi, trước tiên là vùng Bắc Lục, Bắc Hải Đạo, rồi đến Đông Bắc, Quan Đông, đến tận miền Trung như Cận Kỳ, Trung Quốc, Tứ Quốc, Cửu Châu v.v...dần dần đi khắp nước Nhật, phát triển thật quy mô, phải nói rằng, giáo đoàn phát triển nhanh và rộng không thể tưởng được. Từ xưa, Tông Tào Động vẫn truyền với nhau câu tán dương “Nói đến Pháp, có Minh Phong, nói đến Tông (Già Lam), có Nga Sơn”.

Trước Thiền Sư Oánh Sơn, giáo đoàn của Thiền Sư Đạo Nguyên chọn Chùa Vĩnh Bình làm trung tâm, như một xã hội đuợc thu nhỏtồn tại. Dù đôi khi có nguy cơ hoại diệt, song Thiền Sư Oánh Sơn lúc nào cũng “lo nghĩ sâu xa” (thâm lự viễn mưu). Thiền Sư Minh Phong và Thiền Sư Nga Sơn nổ lực không ngừng chấn hưng Phật phápgiáo đoàn Vĩnh Bình Đạo Nguyên vẫn bất tử như tiếng chim hót vang, không gián đoạn. Thời kỳ nầy có thể gọi là thời kỳ mà số chùa viện khá nhiều và phong phú.

II.4.3 Minh Phong, Nga Sơn Thiền SưThời Đại Nam Bắc Triều, An Thổ và Đào Sơn

Từ trung tâm, Chùa Tổng Trì tự những vị đệ tử của Thiền Sư Nga Sơn như Thiền Sư Đại Nguyên Tông Chơn (Daigen Soshin), Thông Huyển Tịch Linh (Tsugen Yakurei), Vô Đoan Tổ Hoàn (Mutan Sokan), Đại Triệt Tông Lệnh (Daitetsu Sorei), Thật Phong Lương Tú (Jitsubo Ryoshu)..., chia nhau đi hoằng hóa các nơi trở thành 5 vị Tổ của 5 nhánh, bởi vì mỗi vị khai sơn ra một nhánh tự viện khác nhau. Cũng từ 5 viện nầy phân ra thành nhiều phái và có đến 70 tự viện nhỏ và trao đổi chư Tăng trong 5 viện để trụ trì 339 ngôi chùa, mà Thiền Sư Oánh Sơn, Thiền Sư Nga Sơn và những người kế tục Thiền Sư Nga Sơn khai sáng. Dưới tàng che trực tiếp của Chùa Tổng Trì, có tất cả 36 chi nhánh, mà từ đó lan truyền khắp nước Nhật, đâu đâu cũng cố gắng phát triển Chùa Viện, kể từ thời Nam Bắc Triều đến An Thổ rồi thời đại Đào Sơn. Điều ngạc nhiên, suốt ba trăm năm Chùa Tổng Trì vẫn là Bổn Sơn của Tông Tào Động dù có nhiều tự viện khác được liên tục xây dựngThiền Sư Thông Huyển Tịch Linh cho rằng Phật sự vô cùng ý nghĩa.

Theo sự điều tra vào năm Diên Bảo thứ 9 của thời kỳ Giang Hộ, số tự viện của Tông Tào Động lúc ấy là 17.549 ngôi, trong đó có 1.370 ngôi chùa thuộc Chùa Vĩnh Bình và 16.173 ngôi chùa thuộc Chùa Tổng Trì. Thực tế, những chùa thuộc chùa Tổng Trì nhiều gấp 12 lần số chùa thuộc Chùa Vĩnh Bình.
Gần đây, theo sự điều tra của Tông Vụ Sảnh về các tự viện và pháp hệ trên toàn quốc về pháp hệ, Tông Tào Động có 1.000 chi phái ghi rõ trong tác phẩm “Tào Động Tông Toàn Thư”, trong đó, pháp hệ Chùa Vĩnh Bình có 30 chi (gồm 5 chi của phái Tịch Viên và 25 chi của phái Hàn Nham), pháp hệ Chùa Tổng Trì có 971 chi (gồm 279 chi thuộc phái Minh Phong, 692 chi thuộc phái Nga Sơn, mà trong phái Nga Sơn có 383 chi thuộc phái Thông Huyễn).
Như vậy, Tông Tào Động từ thời kỳ Nam Bắc Triều đến An Thổ, Đào Sơn, tự viện và pháp hệ thuộc phái Thiền Sư Oánh Sơn, mà trong đó phái Thiền Sư Nga Sơn nắm vai trò quan trọng, rồi trong phái Thiền Sư Nga Sơn, phái Thiền Sư Thông Huyễn chiếm hơn một nữa. Ngay cả, các trung tâm hành chánh đương thời như Tokyo, Nara, Kamakura v.v... cũng khó hơn được. Lạ thay, những đệ tử Tông Tào Động thuộc giai cấp hoàng gia chẳng hề trụ trì ngôi tự viện nào cả, mà hầu hết những tu sĩ đều thuộc giai cấp thấp ở nông thôn tại địa phương và giai cấp võ sĩ tiếp nối nhau truyền thừa. Lúc bấy giờ ở những địa phương khác như Bắc Hải Đạo (Hokkaido), Tứ Quốc (Shikoku), Xung Thằng (Okinawa), ngay cả hải ngoại cũng chưa kiến tạo được nhiều tự viện như thế.

Tông Tào Động phát triển bộc phát mạnh mẽ và rộng rãi như vậy nhờ tư tưởng thuần khiết của tông phong, nhất là ảnh hưởng của Thiền Sư Đạo NguyênThiền Sư Oánh Sơn. Tuy nhiên đằng sau cũng có những điểm suy thoái, nhưng đó là điều tự nhiên trong lịch sử phát triển giáo đoàn, bởi vì sự phát triển nào cũng gắn liền với xã hội, mà đó là những nguyên nhân bên ngoài vô cùng quan trọng. 

Dẫu nói thế nào đi nữa, động lực phát triển chính vẫn là tấm lòng tha thiết hoằng dương chánh pháp của chư Tăng trong tất cả mọi Phật sự, nhờ đó duy trì niềm tintín ngưỡng của tín đồ, có lẽ đó là lý do cụ thể nhất vậy. Tiếp theo đây là những lý do có thể suy đoán được.

Thứ nhất, dưới thời Thiền Sư Nga Sơn, việc bổ nhiệm trụ trì và cử giáo thọ luân phiên giảng dạy đồ chúng được tuyển chọn và quyết định từ hội nghị của Năm Viện, mà Năm Viện nầy được xem là cơ sở trung tâm của mọi Phật sự hoằng dương quảng bá và tổ chức quy mô trên toàn quốc.

Thứ hai, liên lạc với những vị chức sắc hào tộc địa phương, mời họ tham gia vào công cuộc kiến tạo chùa viện và kêu gọi sự ủng hộ của họ cũng như của tín đồ.

Thứ ba, cải cách tất cả những điều luật quy định cổ xưa trong tông môn, tự viện như Tông Chơn Ngôn, Tông Thiên Thai, đặc biệt bỏ bớt những lễ nghi rườm rà và hướng dẫn cho mọi người một cách nhiệt tình và rõ ràng.
Thứ tư, dung hợp một cách bao dung tất cả các tôn giáo như Thần Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo v.v... và những tín ngưỡng dân gian, thờ cúng Tổ Tiên, thờ phụng thần linh v.v..

Thứ năm, dùng Ngũ Vị Thuyết và dùng chữ quốc ngữ để nói pháp cho phổ cập đến các nơi, đồng thời duy trì một cách tích cực những nghi lễ ma chay. Dạy dỗ hướng dẫn một cách linh hoạt như mở các hội thọ giới, hội du lịch v.v... Đời sống của Tăng Sĩ tại chùa có tính cách mô phạm đó đã thâm nhập vào đời sống hằng ngày của dân chúng.

Thứ sáu, xiển dương công án, khán thoại đầu kiến tánh, truyền bá Tông Tào Động khắp trong nhân gianliên lạc thâm tình với Tông Lâm Tế.

Thứ bảy, khất thực hay hành cướcđiều kiện đáp ứng những nguyện vọng thiết thực của người dân trong mọi lãnh vực cả vật chất cũng như tinh thần như: đường sá, cầu cống, khai thác suối nước nóng, y dược, giếng nước, canh tác, cưới hỏi... cho đến những vấn đề lớn như: quân sự, chính trị, học vấn, sinh hoạt v.v...

II.4.4 Phục Hưng Tông HọcVô Hiệu Hóa Tông Đoàn Thời Kỳ Giang Hộ (Edo)

Từ thời Tokugawa, đã có phương pháp quản lý tự viện, tự xã thống nhất trên toàn quốc, Tông Tào Động cũng dựa trên căn bản đó mà quản lý tự viện, có chức vụ Tăng Lục giám sát Chùa Viện trong toàn quốc và thiết lập chế độ đàn gia tín đồ, theo đơn vị tín ngưỡng từng gia đình cố định. Hơn nữa, quy định chế độ của hai Bổn Sơn Vĩnh Bình TựTổng Trì Tự, sát nhập các Bổn Sơn như Đại Từ Tự, Đại Thừa Tự vào chùa lớn như Vĩnh Bình Tự và sát nhập các chùa Vĩnh Quang, chùa Chánh Pháp vào trong sự điều hành của Chùa Tổng Trì. Về nội bộ Tông Đoàn, hợp thức hóa trên hết là hai Bổn Sơn, dưới là các Chùa Viện địa phương, nhằm xử trí những việc đối lập lại, vô hiệu hóa những khinh xuất của chư Tăng giáo hóa truyền đạo, tránh sự tranh đoạt quyền lợi và buôn bán như thế gian làm lệch hướng phát triển của Tông Phong.

Thế nhưng, điều đáng lo là vừa phải thực hiện đúng Tông Phong, vừa vận động duy trì phục cổ. Thiền Sư Nguyệt Đan Tông Hồ (Getsushyu Soko), Thiền Sư Vạn Sơn Đạo Bạch (Manzan Dobaku) thống chế và quản lý hóa Tông Đoàn với hình thức như chủ trương. Những Thiền Sư một thời được xem như Thánh Tăng, như Linh Mộc Chánh Tam (Suzuki Shosan), Đào Thủy (Tosui), Lương Khoan (Ryokan), Phong Ngoại (Fugai), Vật Ngoại (Motsugai) đã sống trọn vẹn với bản tánhlối sống thanh bần, chân chất, vững chãi trước khen chê, khờ khạo trước bàng dân thiên hạ v.v... Chúng ta cũng không thể quên rằng trong lịch sử, có nhiều người vô danh tu trong những ngôi chùa nghèo nàn, giá lạnh, phụng sự chúng sanh, nuôi dạy đệ tử, hoằng hóa độ sanh, mà hầu hết họ là những Tăng sĩ bình thường, nhờ vậy Tông Đoàn mới duy trì được. 

Nhờ vận động phục cổ trong Tông Phong và do chính sách Học Vấn Tường Hòa của Mạc Phủ, nghiên cứu liên hệ với Tông Tào Động khởi lên rầm rộ. Dưới thời kỳ Giang Hộ (Edo) những chùa Thanh Tùy, Thuyền Nhạc, Tăng Lâm v.v... trở thành các trung tâm tu học nổi tiếng, có nhiều tăng sinh trên toàn quốc đến trọ học. Những truyền ký, trước tác, nghiên cứu tư tưởng Thiền Sư Đạo NguyênThiền Sư Oánh Sơn, cũng như Pháp Tự, Thiền Giới, Thanh Quy, Ngũ Vị Thuyết v.v... được các học Tăng nghiên cứu, phân tích, bình giải và thảo luận sôi nổi trong các khóa học. Bấy giờ, kinh điển, những tác phẩm tra cứu, trích lục liên quan cuộc đờihành đạo của chư Tổ cũng được ấn hành đều đặn.

Tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng” được chư vị Thiền Sư học vấn trác tuyệt giảng giải như: Thiền Sư Thiên Quế Truyền Tôn (Tenkei Denso), Thiền Sư Diện Sơn Đoan Phương (Menzan Zuiho), Thiền Sư Chỉ Nguyệt Huệ Ấn (Shigetsu Hein) v.v... Đại diện cho những bậc chứng đắc giác ngộThiền Sư Thiên Quế Truyền Tôn. Đại biểu cho những bậc thể nghiệm sự giác ngộThiền Sư Diện Sơn Đoan Phương, mà cho đến ngày nay hai đại tư trào ấy vẫn còn kéo dài bất tận.

Thiền Sư Vô Trước Đạo Trung (Mujaku Dochyu), học Tăng của Tông Lâm Tế, người thật chứng về thủ pháp đi đầu trong việc nghiên cứu tường tận và phê bình rốt ráo tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, bởi vì có tác phẩm ngụy thơ “Chánh Pháp Nhãn Tạng” đang phổ biến đó đây. Thiền Sư Huyền Tú Tức Trung (Gento Sokuchuyu) phát tâm in tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng” sau 13 năm tu khổ hạnh. Thiền Sư Phật Châu Tiên Anh (Butsuchyu Senei) đề xướng sưu tập những bản “Truyền Quang Lục” của Thiền Sư Oánh Sơn. 
Thế nhưng, Phật sự trọng tâm của thời kỳ hưng thịnh Tông Học dưới thời Giang Hộ (Edo) là tô bồi giải thích những lời giáo huấn sao cho thật chuyên môn trong vấn đề luận nghị, vẫn làm cho việc giáo hóa tín đồ trở nên trì trệ. Do vậy, Thiên Chúa Giáotư tưởng Tây Âu cũng như Nho Giáo tự nhiên trở thành quốc học, mà chẳng có ai lo đối ứng. Phải chăng đây là do sự lơ là về vấn đề phát triển của từng thời đại.

II.4.5 Giáo Đoàn Hướng Về Thời Cận Đại – Minh Trị (Meiji), Đại Chánh (Taisho), và Thời Đại Chiêu Hòa (Showa)

Thời cận đại, chính phủ Minh Trị thay đổi chính sách, một mặt theo đuổi chủ nghĩa Tây Âu, một mặt theo chủ nghĩa phú cường, để phát triển đất nước giàu mạnh, đồng thời chủ trương chính sách tách rời Thần Phật. Giáo Đoàn Phật Giáo cũng thức tỉnh sau cơn sa đọa triền miên, tìm cầu chủ nghĩa quốc gia, cải cách để khế lý và khế cơ. Theo báo cáo của quan Thái Chính, chính phủ công nhận Tăng sĩ được tự do ăn thịt, kết hôn và sống đời sống như người thế tục, vì thế Tăng Phong gần như biến dạng, Giáo Đoàn bỗng nhiên bị thế tục hóa. Tông Tào Động cũng không ngoài lệ ấy.

Giáo Đoàn Tông Tào Động cải cách chế độ Tăng Lục, công bố Tông Chế, thiết lập Tông Vụ, xây dựng lưỡng Đại Bổn Sơn, thành lập đại họcTăng Đường theo cơ chế giáo dục, tiếp tục nghiên cứu, bình giải tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, thành lập “Nhãn Tạng Hội” tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, lý giải tường tận những phong hóa cổ xưa theo Thiền Sư Đạo Nguyên. Ngoài ra, còn biên soạn sách hướng dẫn những người tại gia tu học, tổng kết thành “Tu Chứng Nghĩa”, phát hành tạp chí bàn về các tín ngưỡng khác, để đối phó tư trào thời đạitư tưởng Tây Âu, ấn hành các tác phẩm bằng Anh ngữ dành cho sinh viên chuẩn bị du học, xúc tiến thành lập Tự Viện để truyền đạo, thực hiện nghi thức Hôn lễ theo Phật Giáo

Bước vào thời Minh Trị chẳng bao lâu, Tăng Đoàn trở thành nền tảng chính của chư Tăng và Tông Đoàn chuyển đổi thành Giáo Đoàn hòa hợp với Đàn na tín đồ, thế nhưng, ảnh hưởng chế độ phong kiến và những phong tỏa thời Giang Hộ (Edo), không dễ gì một sớm một chiều mà thay đổi hết được. 
Chính sách nước giàu binh mạnh và chế độ quân chủ áp đặt, khiến cho tài sản của chùa không phát triển, mọi hoạt động bị ngưng trệ, không bắt kịp thời đại đành khoanh tay ngồi nhìn thời thế đổi thay. Hội nghị tại Hokkaido cho biết hầu hết Tăng sĩ hài lòng với những công việc ma chay, tang lễ cho Tín Đồ, không còn tích cực giảng dạy và thuyết pháp cho tín đồ nữa. 
Cuối thời Minh Trị, có sự kiện Hạnh Đức Thu Thủy phản nghịch, nhiều Tăng sĩ liên can đến vụ nầy đều bị tử hình. Điều nầy cho thấy ý thức xã hội quá thấp, không thể phân biệt giữa thiện và ác. Có một giáo đoàn mới ra đời cứu thế, cổ xúy tín ngưỡng Quan Âm làm cho nhiều vị trong giáo đoàn phá rào xin gia nhập vào đó. Giáo đoàn miễn cưỡng áp dụng chế độ đàn gia. Tất cả chỉ được miễn cưỡng áp dụng, phải xúc tiến việc hoạt động tín ngưỡng. Đây là những đề tài được vận động sôi nổi.

Đến thời kỳ Đại Chánh, hầu như toàn thể tăng sĩ trong giáo đoàn an phận với thể chế chủ nghĩa quốc gia, chỉ lo nghi lễ tống táng cho Đàn Gia Tín Đồ. “Chánh Pháp Nhãn Tạng” được giới trí thức bắt đầu nghiên cứu, mong muốn duy trì tư tưởng thiền tịch (thanh tịnh của Thiền Tăng), sửa đổi hình thức của Tông mình, tự tin nghiên cứu học hỏi. Cuộc đờitư tưởng Thiền Sư Đạo NguyênThiền Sư Oánh Sơn cũng được nghiên cứu học tập để thích hợp với thời cận đại.

Các Tông phái phát hành tác phẩm chú thích về “Tu Chứng Nghĩa”, trao truyền những lời khuyên người phụ nữ, những bài ca tán dương Phật. Từ đó, bắt đầu mở rộng việc truyền bá giáo hóa người cư sĩ tại gia. Cuối thời Đại Chánh, Tông môn quyết định chính thức xưng tán nhị vị Tổ Sư đó là: Cao Tổ Thừa Dương Đại Sư (tức Thiền Sư Đạo Nguyên) và Thái Tổ Thường Tế Đại Sư (tức Thiền Sư Oánh Sơn).

Thời Chiêu Hòa, vào năm Chiêu Hòa thứ 20 nước Nhật lâm vào tình trạng chiến bại của đệ nhị thế chiến, Giáo Đoàn cũng bị thay đổi theo. Khoảng 20 năm trước khi chiến tranh chấm dứt, tình huống chiến tranh lan tràn khắp hoàn cầu, Nhật Bản theo chủ nghĩa quân chủ một cách triệt để làm cho nội bộ của Giáo Đoàn dần dần phân hóa và tách khỏi chủ trương nhiều quốc gia. Thời ấy, chỉ cho in 20 tác phẩm “Tào Động Tông Toàn Thư” liên quan đến Thiền Sư Đạo Nguyên và một số tác phẩm của chư Tăng khác. Lễ Sinh Nhật Thiền Sư Đạo Nguyên không còn nữa, song đổi sang cử hành ở các địa phương lễ Nhãn Tạng. Lễ kỷ niệm 700 năm thành lập Tông Tào Động truyền sang Nhật Bản tổ chức rất long trọng. Lễ kỵ nhị vị Tổ Sư Quốc Sư 650 năm được tổ chức trọng thể tại Chùa Vĩnh Bình. Cuối thời Đại Chánh đến đầu thời Chiêu Hòa, có nhiều Tăng sĩ không xuất thân từ Tăng lữ của Tông Tào Động phát hành các tạp chí như Đại Thừa ThiềnĐại Pháp Luân phổ cập, mà trải qua hơn nửa thế kỷ cho đến ngày nay những tạp chí được xem như đại biểu cho Phật Giáo nầy, vẫn còn tiếp tục phát hành với những ngòi bút chân thậttrung thực. Hơn nữa, lấy cơ quan giáo dục làm tiêu chuẩn, để phát triển kinh doanh cho hai Đại Bổn Sơn, cho nên thành lập Komazawa Gakkuen, Sojiji Gakkuen v.v...

Sau khi thua trận, chính phủ ban hành hiến pháp mới, chế định Tôn Giáo Pháp Nhơn, giải phóng đất đai, Giáo Đoàn cũng dựa theo đó mà chế định và công bố Tào Động Tông Tông Hiến và Tông Chế. Các giáo đoàn địa phương khuyến khích dựa vào nguồn kinh tế nông thôn. Chẳng bao lâu sau, tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự khai diễn “Truyền Quang Hội” và tham cứu “Truyền Quang Lục” của Thiền Sư Oánh Sơn. Ngoài ra, còn tổ chức kỷ niệm750 năm ngày sanh Nhật của Thiền Sư Đạo Nguyên, lễ Đại Hiệp kỵ 700 năm cho các vị Tổ Sư Thiền Sư khác, trùng tu di tích Thiền Sư Đạo Nguyên, tu bổ lại những chỗ bị hư hại, xuất bản và nghiên cứu “Chánh Pháp Nhãn Tạng” của Thiền Sư Đạo Nguyên. Thời gian đó, Đại Học Komazawa cũng tổ chức những cuộc hội thảo nghiên cứu về Tông Học và sự truyền bá, thành lập trung tâm nghiên cứu giáo học hiện đại của Tông Tào Động, thành lập “Sư Gia Dưỡng Thánh Sở” và “Tông Lập Tăng Đường”. Giáo Dục Đạo cũng tổ chức nêu rõ những hoạt động trên mọi phương diện của Tông phái, tổ chức trọng thể lễ húy kỵ 650 năm của Thiền Sư Oánh Sơn, 600 năm của Thiền Sư Nga Sơn và lễ kỵ giỗ 700 năm của Thiền Sư Hoài Tráng. Ở Mỹ Châu, Âu Châu, Á Châu v.v... các Hội Truyền Đạo hải ngoại nhất loạt thành lậphoạt động.

Trung tâm hành chánh của giáo đoàn đặt ở Trung Tâm Tokyo như: Cảng Khu Chi, Đinh Mục, Tào Động Tông Tông Vụ Sảnh (Soto Building). Có tất cả là 66 cơ sở Tông Vụ như thế trên khắp các miền đất nước từ đô, thôn, phủ, huyện. Ở dưới có tất cả là 777 giáo khu. Tông Vụ Sảnh chỉ đạo về hành chánh, điều tra, chỉnh lý gồm các phương diện như: Hộ Trì Hội của Tào Động Tông Tông Môn, Đàn Tín Đồ Nghiên Tu Hội, Mai Hoa Lưu Vịnh Tán Ca, Tào Động Tông Phụ Nhơn Hội, Thanh Niên Hội Đông Nam Á Châu và các lãnh vực hoạt động như cứu trợ nạn nhân, hoạt động xuất bản, quản lý việc truyền bá. Các tổ chức khác như Hải Ngoại truyền giáo, khai giáo v.v... cũng hoạt động nhằm mục đích truyền bágiáo hóa.

Lưỡng Đại Bổn Sơn gồm Bổn Sơn Tăng Đường, Chuyên Môn Tăng Đường có 30 tăng đường chuyên môn, hơn 100 cơ quan tham thiền trên toàn quốc và nhiều Đại Học như: Đại Học Komazawa, Đại Học Aichi Gakkuen, Đại Học Tohoku Fukushi, Học Viện Tataryo, Học Viện Setatani, Komazawa Gakkuen, Soji Gakkuen v.v... Ngoài ra, ở các địa phương cũng thiết lập những cơ sở giáo dục liên quan về vấn đề giáo dục của Tông Môn và Tông lập, với nguyện vọng tiến đến con đường quốc tế, phát triển của văn minh khoa học, thế giới hòa bình, an lạc. Đó cũng là nguyện vọng thiết thực hiện tại, mà Giáo Đoàn tổ chức những khóa tu hiện đại khắp đó đây. Thế nhưng, Phật Pháp đang ở vào thế kỷ thứ 21, Giáo Đoàn không thể thiếu sứ mệnh hướng dẫn, phải tự tin, phải hợp lực mạnh mẽ hướng đến phía trước để đáp ứng nhu cầu thời đại

Lần cập nhật cuối (ngày 25, tháng 07, năm 2008) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11383)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11547)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13533)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14122)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10301)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10767)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11269)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11420)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10162)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9959)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10690)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42187)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10478)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11852)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10007)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45735)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11316)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11315)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10624)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11013)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10608)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11160)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11835)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9210)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10532)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10222)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10577)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10906)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10799)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27375)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11853)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12280)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10441)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10777)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10141)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10276)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10637)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10762)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10392)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11465)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18241)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10516)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12842)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11748)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29169)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13314)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22768)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11562)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13802)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25699)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26061)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12060)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11790)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12014)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39609)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22471)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11955)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14216)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12057)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10390)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13292)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34506)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12610)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12222)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12617)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12962)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16290)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27376)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28421)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant