Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảy bước đi sen nở

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12945)
Bảy bước đi sen nở

BẢY BƯỚC ĐI SEN NỞ
Huỳnh Ngọc Trảng 

blankTuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ hàm chứa nhiều tầng ngữ nghĩa vừa phổ quát vừa riêng biệt. Ở bài viết này, chúng ta thử tìm hiểu một tình tiết của kỳ tích Phật đản sinh: Bảy bước đi sen nở.

Trong các ghi chép về sự kiện này, có lẽ nội dung đoạn văn trong kinh Dirghagama (Trường A Hàm) là đáng chú ý nhất: Thái tử Sakyamuni Gautama, khi vừa sinh ra đã đi bảy bước về mỗi phía trong bốn phương và chỉ tay phải lên trời, tay trái xuống đất, tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Dưới mỗi bước chân của thái tử, đất nẻ ra, mọc lên một đoá sen… Ở đây có hai biểu trưng cần xem xét trước tiên: hoa sen và con số 7.

Sen và các biểu trưng của sen

1. Sen (Nelumbo Nucifera) là một loại thực vật thuộc họ “túc căn thảo” (loại cây nảy mầm từ rễ củ), màu sắc đẹp đẽ, nở vào mùa Hạ, mọc từ bùn lầytinh khiết, thơm tho. Do đó, sen được mọi người, mọi dân tộc ưa chuộng, kể cả người Việt:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhuỵ vàng.

Nhuỵ vàng, bông trắng, lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Rõ ràng, sắc tướng toàn mỹ trội bật “trong đầm gì đẹp bằng sen” là hiệu quả trực quan khiến sen chiếm được mỹ cảm của thế nhân, nhưng chính tính vô nhiễm “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” đã làm sen trở thành loài hoa đệ nhất hạng. Sen mọc từ bùn nước nở thành đoá hoa xinh đẹp cực kỳ: những sức mạnh của sự sống có thể biến đổi bùn lầy của tồn tại vật chất ấy thành Cực lạc, Niết bàn. Hoa sen – Phật Thích Ca Mâu Ni ngự trên đó – là bản thể Đức Phật, không bị bùn lầy samsàra tác động.

Chính Phật là Bậc Tự Tại (Svayambhu) nên đài toạ hoa sen biểu thị sự thiêng liêng tôn kính này. Nhiếp Thừa Luận Thích, 15, có giảng rằng: Hoa sen có 4 đức: hương (thơm), tịnh (sạch), nhu nhuyễn (mềm mại) và khả ái (đáng yêu). Đó là bốn đức Chân như, biểu trưng của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Lại nữa, Hoa Nghiêm thám huyền ký, quyển 1, chỉ rõ các ý nghĩa tượng trưng của hoa sen: 1/ Vi diệu nghĩa (chỉ Đức Phật rời khỏi tầm thường nên nói hoa là nghiêm); 2/ Khai phu nghĩa (chỉ hạnh mở giác bày thù thắng); 3/ Đoan chính nghĩa (chỉ tướng viên mãn); 4/ Phân hinh nghĩa (chỉ đức thơm tho, tự phát lộ thơm ngát); 5/ Thích duyệt nghĩa (chỉ cái đức thắng vượt tạo nên niềm hoan lạc không dứt); 6/ Xảo thành nghĩa (chỉ đức tướng đã tu thành rất khéo đẹp); 7/ Quang tịnh nghĩa (chỉ việc dứt lìa chướng nghiệp mà được thanh tịnh); 8/ Trang sức nghĩa (tuỳ theo bản tánh mà làm tăng vẻ đẹp); 9/ Dẫu quả nghĩa (chỉ việc sinh ra nhân để tạo quả của Phật); và 10/ Bất nhiễm nghĩa (chỉ việc ở trần thế mà không bị tiêm nhiễm như sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”).

2. Ngoài ý nghĩa biểu trưng bản thể Đức Phật, sen cũng biểu thị tầng ngữ nghĩa phổ quát hơn. Xuất hiện từ bùn nước của sen, chính sự hiển hách trong bối cảnh đó, sen biểu hiện sự sống xuất hiện đầu tiên trong khoảng mênh mang không rõ sắc màu của những vùng nước khởi nguyên; đó là biểu trưng sự sinh tạo, tái sinh, phục sinh… Như vậy, hoa sen, trước hết là bộ phận sinh tạo, bảo đảm cho các cuộc sinh thànhtái sinh truyền lưu mãi mãi (I, 800).

Ý nghĩa biểu trưng này thấy trong truyền thống Ấn Độ cổ đại, sen được coi là sinh ra từ bóng tối và bừng nở ngoài ánh sáng, biểu thị sự thăng hoa tinh thần. Ở đó, nước là trạng thái bất phân nguyên sơ, sen biểu thị sự hiển hiện phát ra từ đó, sen nở trên bề mặt như một quả trứng thế giới: Nụ hoa biểu trưng quả trứng, hoa nở chỉ cho trứng nở; nó thực hiện khả năng hàm tàng mầm mống ban đầu. Một minh dụ cụ thểthần thoại khai sinh vũ trụ Hindu, được thể hiện trong khoa tranh tượng Ấn giáo: Vishnu ngự trên mặt đại dương nhân quả và từ rốn của Vishnu nhô lên một đoá sen nở chứa đựng thần Sáng tạo Brahma, khởi nguyên xu hướng khai mở (rajas). Ở đây, hoa sen (mọc từ rún Vishnu) biểu thị ngọc châu Mani – của đất và mặt khác cũng biểu trưng cho nước và sự sáng tạo (II,2). Thần thoại thiên địa khai tịch Hindu nói trên của phái Vishnu đưa ra một cảnh giới có mối tương đồng với thế giới trang nghiêm thanh tịnh “Liên hoa tạng” của Đại Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêmthế giới “Liên hoa hải tạng” ở kinh Phạm Võng.

Hoa sen không những có vai trò quan trọng trong điện thờ Hindu mà cả trong Phật giáo. Nó biểu trưng cho sự tự thân sáng tạo. Điều này giải thích tại sao thần Brahma của đạo Hindu ngồi trên hoa sen và chư Phật, Bồ tát đều lấy hoa sen làm đài toạ. Các Phật A Đề (Adi Buddha) đều tự xuất khởi từ ngọn lửa phát lên từ hoa sen.

Việc hoa sen biểu thị như quả trứng thế giới (với nụ / búp là trứng; hoa khai là trứng nở, khai mở) đã nêu trên đây có thể thấy trong các biểu dụ của tông Tịnh Độ: 1) Thai cung: Nơi vãng sinh của các bậc hạ phẩm hạ sinh. Hành giả tu các công đức với tâm nghi hoặc, tuy vãng sinh về Tịnh độ Di Đà, nhưng lại ở trong búp sen chứ không được ra, trong 500 năm không được thấy Phật, nghe pháp, xa lìa tất cả thiện căn thù thắng. Giống như nằm trong thai mẹ tối tăm, nhưng hành giả vẫn cho là nằm trong cung điện nên gọi là Thai cung. Hội vô lượng thọ / kinh Đại Bảo Tích, 18: “Các chúng sinh ấy ở trong búp sen…” (III7546); 2) Liên thai: Người niệm Phật vãng sinh Tịnh độ đều từ hoa sen hoá sinh như trong thai mẹ nên gọi là liên thai. Liên tông bảo giám: “Khi vãng sinh Tịnh độ, vào liên thai kia, thọ hưởng các sự sung sướng” (III,3717). Nói rộng hơn, hoa sen biểu thị cho nguyên lý nữ tính, điều này Kim Cang thừa trình bày những biểu trưng của hoa sen cụ thểchi tiết hơn (II,2).

Bảy bước đi sen nở

1. Cũng như bộ năm (ngũ) truyền thống Trung Quốc (bắt nguồn từ việc quy toàn bộ mọi thứ vào Ngũ hành: Ngũ kim, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ cốc, ngũ luân…), bộ bảy (thất) là biểu trưng cho một tổng thể hoàn chỉnh. Bộ bảy / con số 7 xuất hiện phổ biến trong hầu hết các nền văn hoá, các tôn giáo: từ đạo Cơ Đốc (7 xuất hiện 40 lần trong Khải huyền, 77 lần trong Cựu ước và Phúc âm: 7 tuần lễ, 7 phép lạ, 7 xác nhận của Chúa Kitô… [I,71-72] đến đạo Hồi (7 tầng trời, 7 tầng đất, 7 biển, 7 ngàn địa ngục, 7 cửa, đi 7 vòng quanh K’aba là nghi lễ bắt buộc của tín đồ hành hương đến La Mecque… [I, 72]), đạo Vệ đà, thuật Yoga (Ấn Độ)… Đối với Phật giáo, bộ bảy cực kỳ phong phú: thất bảo (thất bảo chúc [7 loại cháo cúng Phật], thất bảo hoa, thất bảo tháp, thất bảo ngục…), thất bất khả tị (7 điều không tránh được), thất bất thiện luật nghi (7 ác giới), thất cảnh giới, thất cấu, thất cú đáp, thất chân như, thất chi, thất chi luận pháp, thất chúng, thất chủng biện, thất chuyển thức, thất tri (7 thiện pháp), thất uế hạnh, thất xứ thuyết, thất xứ trưng tâm v.v…

Bộ bảy biểu trưng cho một tổng thể hoàn chỉnh, không chỉ giới hạn ở việc định lượng một tập hợp tối đa mà còn có nghĩa là một chu kỳ toàn hảo, viên mãn, một sự hoàn thiện năng động… Trạng thái quá độ sau khi chết kéo dài 49 ngày (7x7) mà chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng là một chu kỳ “trọn vẹn của thời gian” chuyển đổi từ cái này đến cái khác: một sự đổi mới. Ví dụ khác: Mỗi kỳ mặt trăng kéo dài 7 ngày và 4 kỳ trăng khép lại một chu kỳ (7x4=28). Ở đó, số 7 chỉ chiều hướng của một sự thay đổi sau một chu kỳ đã hoàn thành và của chu kỳ mới; các chu kỳ kế tiếp chuyển đổi / miên viễn. Theo Tom Chetwynd: “Giống như mười hai (3x4), bảy (3+4) là đơn vị thời gian cơ bản và thời gian là chiều kích của tinh thần và là thành phần chính yếu cần thiết cho sự thay đổi hay biến đổi. Vì vậy nó là biểu trưng cho năng lượng và sự vận động, đối lập với vật chấtvật liệu; hay nói rộng hơn, đây là kết hợp thể của hình vuông (4 góc) của thực tại tĩnh và nguyên lý động của tam giác (3 góc), hệt như lửa làm chuyển hoá các nguyên tố khác (giống như Ngọc châu trong đoá sen – Om Mani Padme hum – là vũ trụ chứa đựng pháp / dharma đoạn trừ ảo ảnh Màya để chuyển thành Niết bàn – HNT). Số bảy thường là bước/ chặng cuối cùng trước khi hoàn thành, từ không đến vô tận” (IV, 287-288). Những dữ liệu nêu trên ít nhiều đã cung cấp cho chúng ta những căn cứ để hiểu một khía cạnh của bảy bước đi sen nở.

2. Trong Kinh tạng, hoa sen với nhiều dạng thứ đặc dị xuất hiện khá nhiều, tích hợp thêm các tinh nghĩa phong phú. Kinh Đại bát nhã có nhắc đến “Thiên diệp liên hoa” (hoa sen nghìn cánh), luận Đại trí độ lại phân làm 3 loại hoa sen: Nhân hoa (hơn 10 cánh), Thiên hoa (100 cánh), Bồ tát hoa (1.000 cánh); lại nữa, trong kinh Đại thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán đề cập đến các thần Phật ngồi trên hoa sen trăm cánh giảng bách pháp minh môn, ngồi trên sen ngàn cánh giảng thiên pháp minh môn, ngồi trên sen vạn cánh giảng vạn pháp minh môn cho các hạng Bồ tát. Còn đài sen mà Phật Lô Xá Na ngồi (kinh Phạm Võng), chung quanh có ngàn cánh thị hiện hàng ngàn Đức Thích Ca, ngồi dưới cội bồ đề, cùng lúc thành đạo…

Trong các dạng thức của hoa sen, chúng ta cần lưu ý đến dạng hoa sen phổ biến nhất là sen tám cánh (bát diệp) mà Phật ngồi ở chính giữa (trung toà) trong đồ hình gọi là Cửu tự mạn đà la. Ở đây, tám cánh hoa biểu thị không gian tám hướng và sen, như vậy, còn là biểu tượng cho sự hài hoà vũ trụ. Ý nghĩa này thể hiện trong các đồ hình Mạn đà la cũng như các Yantra. Tám hướng biểu thị cho tổng thể không gian. Tám ở đây là 4 phương chính và 4 phương bàng; giản lược lại, bốn phương chính cũng đủ để biểu thị cho tổng thể không gian. Đó là điều mà đoạn trích dẫn trong kinh Trường A Hàm nêu ở đầu bài viết đã chỉ rõ: Thái tử Sakyamuni Gautama, khi vừa sinh ra, đã đi 7 bước về mỗi phía trong bốn phương.

3. Ở chiều kích khác, số bảy biểu thị 6 hướng không gian cộng với 1 trung tâm. Một thần thoại Hindu giáo gắn cho Mặt trời 7 tia sáng, ứng với sáu hướng không gian, tia sáng thứ 7 ở trung tâm. Tương tự cầu vồng không có 7 sắc mà chỉ có 6: màu thứ 7 là màu trắng, tổng hợp của 6 màu kia. Cũng vậy, vũ trụ luận Ấn Độ cổ đại mà Phật giáo đã thừa kế cũng cho rằng trong lớp biển mặn Hàm hải, mỗi châu (lục địa: divìpa) nằm giữa 7 lớp núi vàng (luân vi) là một đại thiết vi. Lại nữa, ngọn núi trung tâm của vũ trụ luận Phật giáoTu Di sơn (Someru) có “thất bảo giai đạo”, hai đường giai đạo có 7 lớp tường báu, 7 lớp lan can, 7 lớp mành lưới, 7 lớp hàng cây… (III, 6913-6914). Điều này chỉ ra con số bảy là biểu thị cho một tổng thể không gian toàn hảo, một tối đa không còn gì hơn được về lượng lẫn chất.

Trở lại sự kiện “bảy bước về bốn hướng và dưới mỗi bước nở một đoá sen”, chúng ta thấy 7 là tổng số 6+1. Đây là biểu tượng cho sáu hướng không gian và một trung tâm (duy ngã độc tôn); 6 hướng ở đây là 4 phương (Đông Tây Nam Bắc) và hai hướng của trục vũ trụ thẳng đứng (thiên thượng: tay phải chỉ trời và thiên hạ: tay trái chỉ đất). Đó là toàn bộ vũ trụ, hiểu theo nghĩa: “Bốn phương trên dưới là vũ, xưa qua nay lại là trụ” [Đào Duy Anh: Hán Việt từ điển giản yếu, Trường Thi xb, S.1957, tr.567]. Như vậy, nói rộng hơn 6+1 biểu thị cho một tổng thể không gian và tổng thể thời gian. Ở đó, biểu lộ cái bí mật của con số 7: sự trở về với trung tâm, với bản nguyên với kết cục của bộ sáu, hoàn thành ở bộ bảy. Đến đây, chúng ta thấy rõ sự tương hợp giữa sự kiện “đi 7 bước sen nở” về 4 hướng và tư thế/ cử chỉ của Phật đản sinh tạo thành một biểu tượng tổng hợp đa nghĩa mà chúng ta còn phải tiếp tục truy tìm.

Huỳnh Ngọc Trảng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14425)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39696)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13876)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37312)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40049)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12649)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13789)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42607)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13822)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37231)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12661)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11746)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22530)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12506)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12568)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13046)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17255)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33223)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14827)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12448)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13125)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51244)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12376)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6606)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13307)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30666)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19342)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12473)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11839)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14755)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13188)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30664)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12023)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11820)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12712)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31885)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29401)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11778)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9645)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9967)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10138)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27790)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15471)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13659)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9828)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18306)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12040)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9565)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8698)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8406)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11473)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31717)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11931)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9215)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9069)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29340)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9065)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9085)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33221)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8419)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30589)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31208)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37096)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32239)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9913)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27083)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8440)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19223)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant