Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý truyền thống tín ngưỡng tôn thờ xá lợi trong Phật giáo Bắc truyền

20 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12000)
Lược ý truyền thống tín ngưỡng tôn thờ xá lợi trong Phật giáo Bắc truyền

LƯỢC Ý TRUYỀN THỐNG TÍN NGƯỠNG TÔN THỜ XÁ LỢI
TRONG PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Phật Giáo tôn giáo của tình thươngcảm thông, của hòa bình và tha thứ, của trí huệtừ bi. Tất cả những gì trên cuộc đời như có, không, thương, ghét, khi đến với Đạo Phật được dung hòa thành chân lý vô thường, từ bi vô lượng diệu hằng và chính Đức Phật Thế Tôn là người thể hiện điều này một cách hoàn hảo nhất. Cuộc đời của Ngài, chân lý của Ngài, ý niệm của Ngài, hành động của Ngài, cuộc sống của Ngài, sắc thân của Ngài đâu đâu cũng hiện rõ nét của tình thương từ bichân lý diệu hằng.

Sắc thân của con người, vốn dĩ là vô thường không bền vững và chẳng thể hằng còn, nhưng bằng tất cả trí tuệtừ bi, Đức Phật đã thể hiện chân lý diệu hằng của sắc thân trong đạo lý vô thường, ví dụ như thân tướng huyễn hóa của Phật qua quá trình tu hành đã thành chân thân xá lợi, và trãi qua hơn 25 thể kỷ vẫn còn nguyên giá trị về chân lý, tín ngưỡng, sùng bái tôn thờ. Chính sự hằng còn của sắc thân xá lợi, chứng minh cho sự thật của chân lý, về tính vững bền kiên cố của vật chất trong chân lý kết hợp vi diệu giữa “thần” và “chất” để tạo nên “vật thể” đó là Phật thân Xá Lợi.

blank

Bảo Tháp chùa Pháp Môn - Tây An, nơi cung phụng "Phật Chỉ Xá Lợi" (Xá Lợi ngón tay Đức Phật)

Nói đến Xá Lợi Phật, nhất là Phật tử Việt Nam ai nấy đều biết và hình như đều đã có túc duyên đã được chiêm ngưỡng Xá Lợi của Phật, vì trong những năm gần đây chùa chiền trong cả nước hân hoan cung nghinh xá lợi, có thể hình dung cảnh tượng: “chùa chùa cung nghinh xá lợi, người người chiêm ngưỡng chân thân”. Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ lúc được truyền vào cho đến ngày nay, xuyên suốt gần 2000 năm chưa có lúc nào cảnh tượng nghinh thỉnh, chiêm ngưỡng Xá Lợi nhiều như lúc này, âu cũng là phước đức của dân tộc Việt Nam vậy. Vậy Xá Lợi là những gì, nguồn gốc từ đâu? tín ngưỡng, tôn thờ, chiêm ngưỡng lễ bái có nguồn gốc từ đâu, để khi chiêm bái cũng như tôn thờ được nhiều điều phước đứchỷ lạc.

Tín Ngưỡng tôn thờ Xá Lợi Phật trong Phật Giáo được ra đời trong một nguyên nhân hết sức tình người và cảm động. Đức Phật sau khi thành đạo, 49 năm hoằng pháp độ sanh, dấu chân của ngài in dấu lên hầu hết mọi nẻo đường đất nước Ấn Độ, từ phố thị đến thôn quê, từ xóm nghèo đến nơi quyền quý. Tình thương của Đức Phật chan hòa đến tất cả mọi người từ vua chúa đến thứ dân, từ kẻ khốn cùng đến người giàu có, từ nô lệ đến trưởng giả.v.v… tình thương vô bờ bến, trong suốt 49 năm thương xót cứu độ như vậy, một khoảng thời gian để chúng sanh được chở che và nương tựa Đức Đại Hùng không phải là ngắn.

Khi Đức Phật vào cõi vô vi Niết Bàn mọi người như hụt hẫn, như bơ vơ không nơi nương tựa và lúc này hình bóng Đức Phật như là một điểm tựa để mọi người hướng về, vì vậy lấy gì để đại diện cho hình bóng ấy. Thời kỳ đầu của Phật Giáo chưa có tín ngưỡng tôn thờ hình tượng Đức Phật cho nên tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi Phật được ra đời, và là nguyên nhân chính để hình thành sùng phụng tượng Phật của Phật Giáo sau này. Đảnh lễ Xá Lợi Phật như đang đảnh lễ chân thân của Phật vậy.

Phật Giáotruyền thống tôn thờ thánh vật Xá Lợi là do nhân duyên Đức Phật dạy cho ngài A Nan. Trong Kinh Trường A Hàm quyển 3 Kinh Du Hành chép: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sắp đến ngày nhập Niết Bàn, phó chúc cho đệ tửA Nan: Khi ông an táng Ta, trước tiên nên dùng nước thơm tắm rửa, sau dó dùng Kiếp Cụ mới (kiếp cụ là 10 thứ y phục của Tỳ Kheo, được làm bằng vải) quấn quanh thân ta, dùng 500 tấm lụa trắng tốt để khâm liệm, sau đó liệm vào trong ba lớp quan quách, lớp quan tài thứ nhất làm bằng vàng, sau khi liệm vào nên đổ đầy Ma dầu, kế đó để vào lớp quan tài thứ hai làm bằng thiết, ngoài lớp quan tài bằng thiết làm một chiếc quách bằng gỗ Hương Chiên Đàn bao lại, trên quách Hương Chiên Đàn phủ áo quan kết bằng các thứ hoa hương, sau đó đốt lửa phần hóa, rồi thu nhặt Xá Lợi, lập tháp ở một bên đạo tràng để phụng thờ, treo các loại phang phướng, để người người đi qua thấy được bảo tháp phụng thờ Xá Lợi Phật, đó cũng là cách tuyên dương Pháp của Như Lai.”

Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật, vì thương xót chúng sanh đời vị lai không có nhân duyên được tận mắt chiêm ngưỡng được kim thân của Ngài, nên Đức Phật lưu lại Pháp thân bất diệtXá Lợi để gieo duyên lành cho người đời sau, vì duyên như vậy nên trong Phát Bồ Đề Tâm Văn ngài Thật Hiền Thiền Sư khi được nhân duyên đảnh lễ Xá Lợi Phật cảm niệm rằng: “Tội gì mà sanh vào đời mạt pháp, phước gì được dự vào hàng xuất gia, chướng gì sanh ra đời không được gặp Phật, hạnh duyên gì mà nay được chiêm ngưỡng Xá Lợi...”

blank

Đây là 1 trong 7 chiếc hòm đựng Xá Lợi ngón tay Đức Phật trong địa cung Bảo Tháp chùa Pháp Môn - Tây An

Xá Lợi tiếng Phạm gọi là sarira có nghĩa là di cốt, còn gọi là Thật Lợi, Thiết Lợi La, Thất Lợi La, dịch là thân thể, thân cốt, di thân, từ được thường dùng gọi là di cốt của Đức Phật, là tất cả các vật thể còn lại của thân Phật sau khi đã trà tỳ. Theo quan niệm của Phật Giáo sự hình thành của Xá Lợi không có quan hệ đến sự vận động vật chất của thiên nhiên, cũng không phải do sự kết tinh của thực vật, mà là do sự tích lũy của công năng tu trì suốt bao năm tháng mới có thể hình thành, đồng thờisự tích lũy của công đức và là thành quả của huân tu Giới Định Huệ. Trong Kinh Kim Quang Minh quyển thứ tư Phẩm Xả Thân có chép: “Xá Lợi là do sự huân tu Giới Định Huệ mà có, thật rất khó có thể có được, là phước điền tối thượng” .

Xá Lợi thường có những màu gì, trong sách Pháp Uyển Châu Lâm đời Đường quyển thứ 4 chép: “Xá Lợi có 3 màu; 1 là xương Xá Lợi có màu trắng hoặc là màu trắng ngà như ngọc trân châu; 2 là tóc Xá Lợi có màu đen; 3 là thịt Xá Lợi có màu đỏ huyết... sau khi trà tỳ xong nhặt được Xá Lợi là 8 vạn 4 ngàn viên đều tỏa ánh hào quang bảy màu... trong đó nhiều nhất là Xá Lợi có màu trắng và một số ít Xá Lợi màu đen, còn Xá Lợi màu đỏ thì vô cùng hiếm ít khi thấy...”

Xá lợi của Phật được phân thành hai loại, loại thứ nhất là Kim thân của Đức Phật sau khi trà tỳ xong nát thành từng viên nhỏ được gọi là “Toái Thân Xá Lợi” những phần thân thể nào sau khi trà tỳ rồi mà vẫn còn giữ lại nguyên hình dạng ban đầu gọi là “Sanh Thân Xá Lợi”. Ngày nay chúng ta nghinh thỉnh, tôn thờ chiêm bái đều là toái thân xá lợi, Sanh thân xá lợi của Đức Phật sau khi trà tỳ rồi còn lưu lại gồm có: Bốn chiếc răng và một đốt xương ngón tay. Ngoài hai loại Xá Lợi Phật đã nêu trên chúng ta còn có Pháp Thân Xá Lợi là tất cả giáo lý kinh điển của Đức Phật để lại trên thế gian.

Truyền thống xây tháp phụng thờ Xá Lợi Phật có rất sớm trong Phật Giáo, trong sách Thích Ca Như Lai Ứng Hóa Sự Tích chép: “Kinh Xứ Thai ghi rằng: Lúc bấy giờ có tám vị quốc vương đem binh mã đến thành Câu Thi Na để phân chia Xá Lợi Phật. Tám vị quốc vương gồm có, vua Ưu Điền, vua Đảnh Sanh, Vua Ác Sanh, Vua A Xà Thế và bốn vị chúa của bốn đội binh mã lớn của Ấn Độ cũng đến như, đội quân của vua Tối Hào, đội binh mã vua Dung Nhan, đội binh mã của vua Xí Thạnh, đội binh mã của vua Kim Cang. các vị quốc vương đều muốn Xá Lợi của Phật thuộc về mình. Bấy giờ có vị đại thần tên là Ưu Ba Các can gián rằng, các vua đừng có tranh giành nên phân chia đều ra để phụng thờ cúng dường.

Bấy giờ vua trời là Thích Đề Hoàn Nhân hiện ra dùng tiếng của loài người nói rằng: Ta và chư Thiên chúng cũng phân một phần. Long Vương A Nậu Đạt, Long Vương Văn Lân, Long Vương Hy Na Bát, các vị long vương đều nói chúng tôi cũng chia một phần Xá Lợi. Bây giờ các vị quốc vương và đại thần Ưu Ba Các đêm Xá Lợi chia ra làm ba phần, một phần của chư thiên, một phần của Long vương, một phần cho tám vị quốc vương... khi được Xà lợi rồi chư thiên xây tháp ở trên trời để phụng thờ, Long vương xây tháp dưới long cung để phụng thờ, và tám vị quốc vương đem phần xá lợi được chia của mình về nước xây tháp phụng thờ...”

Tín ngưỡng Xá Lợi cũng như truyền thống xây tháp phụng thờ xá lợi được phổ biến khắp trong thiên hạ, có thể nói là nhờ công lao của Vua A Dục Vương, trong sách A Dục Vương truyện chép: “Bấy giờ vua A Dục đến chùa Chỉ Kê Đầu Ma, nhà vua đến trước Thượng Tọa Da Xá chắp tay bạch rằng: Tôi nay phát nguyện tạo dựng 8 vạn 4 ngàn bảo tháp trên khắp cõi Diêm Phù Đề. Thượng Tọa đáp lời: Lành thay, lành thay.... Vua trở về cung lệnh làm 8 vạn 4 ngàn hòm báu, dùng vàng bạc châu báu để trang trí, trong mỗi hòm báu đều để một viên xá lợi, sau đó lại làm 8 vạn 4 ngàn bình sứ để đựng đồ bảy báu, lại làm 8 vạn 4 ngàn bảo cái, 8 vạn 4 ngàn hoa xếp bằng lụa để làm vật trang nghiêm, cứ một hòm Xá Lợi giao cho một vị Da Xoa, sai đem đi đến khắp nơi trong cõi Diêm Phù Đề. Cứ chổ nào đủ một ức người thì tạo một bảo tháp...” và từ duyên lành này Xá Lợi tháp được tạo dựng khắp trong thiên hạ.

blank

hòm bằng ngọc an trí Phật Chỉ Xá Lợi trong địa cung Bảo Tháp chùa Pháp Môn

Năm phần Sanh Thân Xá Lợi của Đức Phật được tôn thờ ở các nơi như: chiếc răng Xá Lợi Phật thứ nhất được tôn thờ tại bảo tháp tại cung trời Đao Lợi do Vua Đế Thích thỉnh về, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn chép: “Phật Đà nhập Niết Bàn, sau khi trà tỳ xong, Đế Thích Thiên vua của cung trời Đao Lợi cầm bình bảy báu và các phẩm vật cúng dường, đến nơi Đức Phật trà tỳ, trong phút chốc thì lửa liền tắt, Vua Đế Thích mở nắp Kim Quan của Phật, muốn thỉnh xá lợi răng Phật, Ngài A Na Luật liền thưa với Đế Thích rằng: Ngài đừng tự mình thỉnh, mà hãy chờ đại chúng lại phân chia. Vua Đế Thích nói: Phật Đà thuở trước có hứa cho ta một chiếc răng Xá Lợi, vì vậy nay ta đến lấy, nên lửa liền tắt. Đế Thích nói xong liền lập tức mở Bảo quan, lấy chiếc răng Xá Lợi trên hàm trên của Phật. về cung trời Đao Lợi xây tháp phụng thờ cúng dường.

Chiếc răng Xá Lợi Phật thứ hai được tôn thờ tại Bảo tháp chùa MaLaGaWa, thành Phố Kandy nước Tích Lan, được coi là quốc bảo của nước Tích Lan, theo sách Phật Nha Sử chép: “Phật nhập Niết Bàn sau khi trà tỳ xong, còn lưu lại Xương Đầu Xá Lợi, hai xương cổ Xá Lợi và bốn chiếc răng Xá Lợi, trong đó một chiếc răng Xá Lợi được thánh giả Cách Mã gìn giữ. Sau đó thánh giả Cách Mã đem chiếc răng Xá Lợi giao cho vua nước Ca Tuấn Già là Đà Trì Bà La Môn cúng dường, năm 371 tây lịch nước lân bang của Ca Tuấn Già muốn cướp Xá Lợi, gây chiến tranh với nước Ca Tuấn Già. lúc bấy giờ vua nước Ca Tuấn Già là Ca Ha Tắc Ngõa, vì sợ nước lân bang cướp mất, nên ra lịnh cho con gái là Hách Mạn Mạn Lệ đem răng Phật Xá Lợi đến Tích Lan. Bấy giờ vua Tích Lan Cát Trì Xích Lợi Di Văn Kiền thành tín Phật, được vật bảo vô giá, nên tại hoàng cung xây dựng một ngôi chùa để phụng thờ Răng Phật Xá Lợi. Còn ra một sắc lịnh mỗi năm từ ngày mồng 1 đến ngày 12 tháng 4 là ngày quốc lễ răng Phật Xá Lợi”.

Chiếc Răng Xá Lợi Phật thứ ba tôn thờ tại Bảo Tháp chùa Linh Quang, Bắc Kinh, Trung Quốc. Vào thời Nam Bắc triều, Lưu Tống niên hiệu Nguyên Huy thứ ba có nhà sư Pháp hiệuPháp Hiến đi đến nước Vu Điền, cầu học Phật Pháp, sau khi học xong quay về Kiến Khang (Nam Kinh) trước lúc lên đường về nước có một vị Phạm Tăng tặng cho một chiếc hòm bằng thiết, nói rằng trong ấy có Xá Lợi Răng Phật, là vật quý báu nhất thế gian, nay cho nhà ngươi đem về phương Nam cúng dường thờ phụng, hết sức hộ trì hoằng dương Phật Pháp.

blank

Bảo Tháp bằng vàng tôn phụng Phật Chỉ Xá Lợi trong địa cung Bảo Tháp chùa Pháp Môn

Pháp sư Pháp Hiến đem Phật răng Xá Lợi về nước, vì là thánh vật hy hữu cho nên không dám nói cho ai biết, sợ sanh chuyện chẳng lành. Đời vua Tề Huệ Đế, quan chưởng giáo tư đồ là Cách Lăng Vương Văn Tuyên, ngày 29 tháng 6 niên hiệu Vĩnh Minh thứ 7, nằm mộng thấy mình đến Định Lâm gặp Pháp Hiến, Pháp sư Pháp Hiến nằm bịnh trên giường, ông ta liền hỏi Pháp sư: Sanh Lão Bịnh tử bốn thứ khổ, cho đến người đã đắc ngũ thần thông cũng không thể tránh khỏi, Pháp sư ông ngoài y bát ra còn cất những gì để đưa ra làm công đức không? Pháp sư đáp: tôi còn cất một vật vô giá thần bảo, nay giao cho ông, thỉnh ông tự mình mà đi lấy.... tỉnh mộng ông cho là điềm lạ liền đến nơi ở của Pháp sư Pháp Hiến hỏi pháp sư có cất giữ bảo vật gì mà không cho ta xem, Pháp sư giật mình đành phải nói thật về việc cất giữ Xá Lợi Răng Phật, và tự mình đem Xá Lợi Răng Phật đến Văn Tuyên xứ...sau đó xây tháp phụng thờ, đây là truyền thuyết mộng trung được Xá Lợi Răng Phật của tháp Phật Nha chùa Linh Quang Bắc Kinh.

Chiếc Răng Xá Lợi thứ tư theo truyền thuyết là được tôn thờ tại Ấn Độ, thế kỷ thứ 5 Hồi giáo xâm chiếm ấn độ, diệt trừ Phật Giáo được các vị Tăng Ấn Độ đem lên thờ tại Tây Tạng đến khi cuộc cách mạng văn hóa xảy ra ở Trung Quốc, thì các vị Lạt ma đem chiếc răng này chạy xuống Ấn Độ và trong một nhân duyên thù thắng các vị lạt ma đem chiếc răng Phật thứ tư cúng dường cho chùa Phật Quang Sơn Đài Loan và hiện nay chùa Phật Quang Sơn đang xây Phật Đà kỷ niệm tháp để tôn thờ.

Đốt xương ngón tay của Phật hiện nay được tôn thờ tại Chân Thân Bảo Tháp chùa Pháp Môn, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Trong Pháp môn Tự ký chép: “Xá Lợi xương ngón tay của Phật được tôn thờ tại Chân Thân Bảo Tháp chùa Pháp Môn là một trong 19 nơi có Tháp Xá Lợi của Vua A Dục trên đất nước Trung Quốc. Chùa Pháp Môn có tên Là A Dục Vương Tự, đến triều nhà Đường chùa A Dục Vương được đổi tên là chùa Pháp Môn, sau đó do chùa có Xá Lợi ngón tay của Phật nên được triều đình sắc phong trở thành chùa của Hoàng gia.

blank

đây là 7 chiếc hàm đựng Xá Lợi ngón tay Đức Phật

Bảo Tháp Chân Thân chùa Pháp Môn, tôn thờ cúng dường Xá Lợi ngón tay Phật, theo những ghi chép để lại thì bắt đầu từ Đường Cao Tông đến Đường Ai Đế, trãi qua 22 đời vua trong khoảng 290 năm trước sau có 7 lần mở cửa địa cung, 6 lần cung thỉnh Xá Lợi về kinh đô Trường AnLạc Dương để cúng dường. Vào năm 1981, Bảo Tháp 13 tầng làm bằng gạch được trùng kiến vào triều đại nhà Minh, sau một trận mưa lớn bổng nhiên đổ xập, trong khi trùng tu lai tháp, phát hiện địa cung đời Đường dưới tầng móng của bảo tháp, khi khai quật phát hiện thất trùng bảo hàm ở hậu thất trong địa cung, trong bảo hàm an trí cúng dường Xá Lợi ngón tay Phật. Sau khi phát hiện được xá lợi này, tin này được truyền đi lập tức làm kinh động toàn thế giới, vì trên thế giới cho đến thời điểm này Xá Lợi ngón tay Phật lần đầu tiên được phát hiện. Xá Lợi ngón tay Phật chính là thánh vật của Phật Giáo Bắc Truyền, và không chỉ là bảo vật của quốc gia của Trung Quốc, mà còn là vật báu hy hữu của toàn cầu.

Việt Nam cũng có một nơi được vua A Dục dựng tháp, đó là tháp Tường Long ở Đồ Sơn Hải Phòng. Theo sách Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ chép: “thành Nê Lê ở phía Nam huyện Định An, cách sông 7 dặm, tháp và giảng đường do vua A Dục dựng vẫn còn” Trong sách Đạo Phật Việt Nam của HT Thích Đức Nghiệp chép: “Khoảng 300 năm trước tây lịch, nghĩa là: Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ III tại Pataliputra (Hoa Thị Thành) Ấn Độ, do vua Asoka thực hiện; và cũng sau đại hội này đức vua đã gửi chín giáo đoàn đi truyền bá chính pháp tại các nước, từ Afghanistan (A Phú Hãn) tới đông bộ Mediterrenée (Địa Trung Hải), trong đó có một giáo đoàn do hai ngài Sona và Uttara lãnh đạo, đã tới Miến Điện và toàn xứ Đông Dương kể cả Việt Nam.

Nói cách khác, hồi đó, ở Giao chỉ tại thành Nê Lê, tên cũ của vùng Đồ Sơn hiện nay, cách Hải Phòng 12 cây số có bảo tháp vua A Dục (Asoka), do các Phật tử địa phương xây nên, để tri ân vua A Dục (Asoka) đã cử giáo đoàn tới đây để truyền bá Phật pháp”. Qua đó cho thấy tín ngưỡng dựng tháp tôn thờ Xá Lợi Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm, sớm hơn cả miền Giang Đông Trung Quốc.

Đại Sư Khương Tăng Hội Giáo Tổ của Phật Giáo Việt Nam vào năm 247 sau công nguyên, đem Đạo Phật đến truyền báthành Kiến Nghiệp Giang Đông, lúc bấy giờ Kiến Nghiệp (Nam Kinh Trung Quốc) là kinh đô của nhà Đông Ngô một trong ba nước của thời kỳ Tam Quốc, thời Ngô Tôn Quyền, niên hiệu Xích Điểu thứ 10 (247) ở Đông Ngô chưa có tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi.

Trong sách Cao Tăng Truyện có đoạn chép: “Tôn Quyền triệu kiến ngài Khương Tăng Hội và hỏi sư rằng: các vị tu hành có gì là linh nghiệm? sư đáp: Đức Như Lai nhập Niết Bàn đến nay đã 1000 năm, nhưng Xá Lợi mà Ngài lưu lại, vẫn còn tỏa hào quang thần kỳ sáng chói. Từ khi vua A Dục phát tâm đã tạo 8 vạn 4 ngàn bảo tháp để cúng dường, những chùa tháp hùng vĩ ấy, cũng đủ nói rõ sự giáo hóa của Phật Đà lớn rộng và thâm hậu đó sao? Tôn Quyền không tin, cho là lời nói khoa trương không thật, bèn nói vơi ngài Khương Tăng Hội: Nếu như ông có thể cầu được Xá Lợi thì ta sẽ xây Tháp phụng thờ cúng dường”.

blank

Tượng chư Thiên bưng Phật Chỉ Xá Lợi trong địa cung chùa Pháp Môn

Qua đoạn văn trên cho thấy tín ngưỡng tôn thờ Xá lợi xây tháp cúng dường Phật cho đến thể kỷ thứ 2 sau công nguyên vẫn chưa được truyền vào Giang Đông Trung Quốc và người ở đây vẫn chưa có đủ phước duyên để chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật, nhưng ở Việt Nam thì đã rất thịnh hành. Một lần nữa chứng minh cho tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi và tháp A Dục Vương từ rất sớm đã được truyền vào Việt Nam, vì trong khi trã lời cho Tôn Quyền ngài Khương Tăng Hội có nhắc đến.

Theo tài liệu Phật giáo thời nhà Đường (618-907), Trung Quốc có cả thảy 19 nơi có bảo tháp Vua A Dục tôn trí xá lợi Phật. Cho đến nay, người ta cho rằng chỉ mới 7 bảo tháp được phát hiện tại các vùng miền khác nhau của Trung Quốc. Mới đây tại Thành Phố Nam Kinh Trung Quốc người ta phát hiện được bảo tháp của Vua A Dục, tại di chỉ của chùa Đại Báo Ân trong tháp có để Xá Lợi xương đảnh đầu của Đức Phật, có thể nói hiện nay Phật Giáo Bắc Truyền nói chung và Trung Quốc nói riêng, là nơi có nhiều Thánh vật của Phật Giáo nhất, có năm phần chân thân Xá Lợi, thì có hết ba Phần được tôn trí thờ phụng trên đất nước Trung Quốc, như tháp thờ răng Phật ở Bắc Kinh, tháp thờ răng Phật ở Đài Loan, tháp thờ xương đốt ngón tay Phật ở tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc.

Đạo Phật cũng như tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhưng do bối cảnh của lịch sử, trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước, chiến tranh liên miên dân tình khốn khổ, cộng với ách đô hộ tàn bạo độc ác của các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng như phương Tây và tư tưởng đồng hóa văn hóa của các thế lực xâm lược, nên sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam không được thuận lợi như các nước lân cận trong hệ thống Phật Giáo Bắc Truyền như Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng niềm tin đối với Đức Phật sự tôn sùng kính ngưỡng đối với Xá Lợi của Ngài thì không có gì lay chuyển nổi trong tinh thần trái tim con dân Phật Giáo Việt Nam.

blank

Chư Tôn Đức cùng đoàn Phật tử Việt Nam nhân dịp cung thỉnh Giới Bổn tại Chung Nam Sơn đã đến đảnh lễkinh hành trong địa cung nơi Tôn phụng Phật Chỉ Xá Lợi 

“Phật tại thế thời ngã trầm luân
kim đắc nhơn thân Phật diệt độ
áo não thử sanh đa nghiệp chướng
bất kiến Như Lai kim sắc thân”
Tạm dịch:
Khi Phật ở trần đời con trầm luân
Con sanh ra đời Phật diệt độ
áo não đời con nhiều nghiệp chướng
không thấy kim thân Phật ở đời

Như hôm nay có thể tận mắt thấy được Xá Lợi Phật cũng giống như được thấy kim thân của Phật vậy, âu cũng là diễm phúc một đời. Là đệ tử Phật chúng ta nên phát nguyện, từ nay càng nên tinh tấn tu hành, nương theo từ bi, trí tuệ, nguyện lực của Phật để sớm thoát khỏi trần lao đạt đáo giác ngộ giải thoát.

Mùa Phật Đản một lần nữa lại về với mọi người con Phật trên toàn thế giới, kính cẩn nguyện cầu Xá Lợi của Phật thường trụ thế gian, làm nơi quy ngưỡng cho tất cả chúng sinh, làm nơi nương tựa cho tất cả những người con Phật và nguyện cầu oai lực của Xá Lợi Phật gia hộ thế giới hòa bình, đất nước hưng thạnh, nhân dân vui cảnh thái bình, mọi người thấm nhuần từ bitrí tuệ.

Thích Tâm Mãn
Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com - Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú - Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31687)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10538)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11237)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12771)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10818)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16683)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10830)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22981)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12036)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11505)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10699)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12348)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11203)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10036)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10335)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11936)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10706)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12387)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9826)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11283)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13851)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12643)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9714)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10473)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10575)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10339)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9915)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11066)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12027)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10795)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9546)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9906)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8776)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9507)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14535)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12566)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10432)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10569)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9345)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8816)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10528)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9206)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12037)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9704)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10221)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10233)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19158)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9421)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8997)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9594)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14768)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10104)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8362)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8981)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8751)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14610)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9047)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8788)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9055)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10541)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8650)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10003)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24296)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9010)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9483)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8014)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9280)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15360)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10345)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17458)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12176)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10239)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19263)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26059)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7985)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11359)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9544)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12373)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9280)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9399)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15913)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant