Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý truyền thống tín ngưỡng tôn thờ xá lợi trong Phật giáo Bắc truyền

20 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12013)
Lược ý truyền thống tín ngưỡng tôn thờ xá lợi trong Phật giáo Bắc truyền

LƯỢC Ý TRUYỀN THỐNG TÍN NGƯỠNG TÔN THỜ XÁ LỢI
TRONG PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Phật Giáo tôn giáo của tình thươngcảm thông, của hòa bình và tha thứ, của trí huệtừ bi. Tất cả những gì trên cuộc đời như có, không, thương, ghét, khi đến với Đạo Phật được dung hòa thành chân lý vô thường, từ bi vô lượng diệu hằng và chính Đức Phật Thế Tôn là người thể hiện điều này một cách hoàn hảo nhất. Cuộc đời của Ngài, chân lý của Ngài, ý niệm của Ngài, hành động của Ngài, cuộc sống của Ngài, sắc thân của Ngài đâu đâu cũng hiện rõ nét của tình thương từ bichân lý diệu hằng.

Sắc thân của con người, vốn dĩ là vô thường không bền vững và chẳng thể hằng còn, nhưng bằng tất cả trí tuệtừ bi, Đức Phật đã thể hiện chân lý diệu hằng của sắc thân trong đạo lý vô thường, ví dụ như thân tướng huyễn hóa của Phật qua quá trình tu hành đã thành chân thân xá lợi, và trãi qua hơn 25 thể kỷ vẫn còn nguyên giá trị về chân lý, tín ngưỡng, sùng bái tôn thờ. Chính sự hằng còn của sắc thân xá lợi, chứng minh cho sự thật của chân lý, về tính vững bền kiên cố của vật chất trong chân lý kết hợp vi diệu giữa “thần” và “chất” để tạo nên “vật thể” đó là Phật thân Xá Lợi.

blank

Bảo Tháp chùa Pháp Môn - Tây An, nơi cung phụng "Phật Chỉ Xá Lợi" (Xá Lợi ngón tay Đức Phật)

Nói đến Xá Lợi Phật, nhất là Phật tử Việt Nam ai nấy đều biết và hình như đều đã có túc duyên đã được chiêm ngưỡng Xá Lợi của Phật, vì trong những năm gần đây chùa chiền trong cả nước hân hoan cung nghinh xá lợi, có thể hình dung cảnh tượng: “chùa chùa cung nghinh xá lợi, người người chiêm ngưỡng chân thân”. Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ lúc được truyền vào cho đến ngày nay, xuyên suốt gần 2000 năm chưa có lúc nào cảnh tượng nghinh thỉnh, chiêm ngưỡng Xá Lợi nhiều như lúc này, âu cũng là phước đức của dân tộc Việt Nam vậy. Vậy Xá Lợi là những gì, nguồn gốc từ đâu? tín ngưỡng, tôn thờ, chiêm ngưỡng lễ bái có nguồn gốc từ đâu, để khi chiêm bái cũng như tôn thờ được nhiều điều phước đứchỷ lạc.

Tín Ngưỡng tôn thờ Xá Lợi Phật trong Phật Giáo được ra đời trong một nguyên nhân hết sức tình người và cảm động. Đức Phật sau khi thành đạo, 49 năm hoằng pháp độ sanh, dấu chân của ngài in dấu lên hầu hết mọi nẻo đường đất nước Ấn Độ, từ phố thị đến thôn quê, từ xóm nghèo đến nơi quyền quý. Tình thương của Đức Phật chan hòa đến tất cả mọi người từ vua chúa đến thứ dân, từ kẻ khốn cùng đến người giàu có, từ nô lệ đến trưởng giả.v.v… tình thương vô bờ bến, trong suốt 49 năm thương xót cứu độ như vậy, một khoảng thời gian để chúng sanh được chở che và nương tựa Đức Đại Hùng không phải là ngắn.

Khi Đức Phật vào cõi vô vi Niết Bàn mọi người như hụt hẫn, như bơ vơ không nơi nương tựa và lúc này hình bóng Đức Phật như là một điểm tựa để mọi người hướng về, vì vậy lấy gì để đại diện cho hình bóng ấy. Thời kỳ đầu của Phật Giáo chưa có tín ngưỡng tôn thờ hình tượng Đức Phật cho nên tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi Phật được ra đời, và là nguyên nhân chính để hình thành sùng phụng tượng Phật của Phật Giáo sau này. Đảnh lễ Xá Lợi Phật như đang đảnh lễ chân thân của Phật vậy.

Phật Giáotruyền thống tôn thờ thánh vật Xá Lợi là do nhân duyên Đức Phật dạy cho ngài A Nan. Trong Kinh Trường A Hàm quyển 3 Kinh Du Hành chép: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sắp đến ngày nhập Niết Bàn, phó chúc cho đệ tửA Nan: Khi ông an táng Ta, trước tiên nên dùng nước thơm tắm rửa, sau dó dùng Kiếp Cụ mới (kiếp cụ là 10 thứ y phục của Tỳ Kheo, được làm bằng vải) quấn quanh thân ta, dùng 500 tấm lụa trắng tốt để khâm liệm, sau đó liệm vào trong ba lớp quan quách, lớp quan tài thứ nhất làm bằng vàng, sau khi liệm vào nên đổ đầy Ma dầu, kế đó để vào lớp quan tài thứ hai làm bằng thiết, ngoài lớp quan tài bằng thiết làm một chiếc quách bằng gỗ Hương Chiên Đàn bao lại, trên quách Hương Chiên Đàn phủ áo quan kết bằng các thứ hoa hương, sau đó đốt lửa phần hóa, rồi thu nhặt Xá Lợi, lập tháp ở một bên đạo tràng để phụng thờ, treo các loại phang phướng, để người người đi qua thấy được bảo tháp phụng thờ Xá Lợi Phật, đó cũng là cách tuyên dương Pháp của Như Lai.”

Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật, vì thương xót chúng sanh đời vị lai không có nhân duyên được tận mắt chiêm ngưỡng được kim thân của Ngài, nên Đức Phật lưu lại Pháp thân bất diệtXá Lợi để gieo duyên lành cho người đời sau, vì duyên như vậy nên trong Phát Bồ Đề Tâm Văn ngài Thật Hiền Thiền Sư khi được nhân duyên đảnh lễ Xá Lợi Phật cảm niệm rằng: “Tội gì mà sanh vào đời mạt pháp, phước gì được dự vào hàng xuất gia, chướng gì sanh ra đời không được gặp Phật, hạnh duyên gì mà nay được chiêm ngưỡng Xá Lợi...”

blank

Đây là 1 trong 7 chiếc hòm đựng Xá Lợi ngón tay Đức Phật trong địa cung Bảo Tháp chùa Pháp Môn - Tây An

Xá Lợi tiếng Phạm gọi là sarira có nghĩa là di cốt, còn gọi là Thật Lợi, Thiết Lợi La, Thất Lợi La, dịch là thân thể, thân cốt, di thân, từ được thường dùng gọi là di cốt của Đức Phật, là tất cả các vật thể còn lại của thân Phật sau khi đã trà tỳ. Theo quan niệm của Phật Giáo sự hình thành của Xá Lợi không có quan hệ đến sự vận động vật chất của thiên nhiên, cũng không phải do sự kết tinh của thực vật, mà là do sự tích lũy của công năng tu trì suốt bao năm tháng mới có thể hình thành, đồng thờisự tích lũy của công đức và là thành quả của huân tu Giới Định Huệ. Trong Kinh Kim Quang Minh quyển thứ tư Phẩm Xả Thân có chép: “Xá Lợi là do sự huân tu Giới Định Huệ mà có, thật rất khó có thể có được, là phước điền tối thượng” .

Xá Lợi thường có những màu gì, trong sách Pháp Uyển Châu Lâm đời Đường quyển thứ 4 chép: “Xá Lợi có 3 màu; 1 là xương Xá Lợi có màu trắng hoặc là màu trắng ngà như ngọc trân châu; 2 là tóc Xá Lợi có màu đen; 3 là thịt Xá Lợi có màu đỏ huyết... sau khi trà tỳ xong nhặt được Xá Lợi là 8 vạn 4 ngàn viên đều tỏa ánh hào quang bảy màu... trong đó nhiều nhất là Xá Lợi có màu trắng và một số ít Xá Lợi màu đen, còn Xá Lợi màu đỏ thì vô cùng hiếm ít khi thấy...”

Xá lợi của Phật được phân thành hai loại, loại thứ nhất là Kim thân của Đức Phật sau khi trà tỳ xong nát thành từng viên nhỏ được gọi là “Toái Thân Xá Lợi” những phần thân thể nào sau khi trà tỳ rồi mà vẫn còn giữ lại nguyên hình dạng ban đầu gọi là “Sanh Thân Xá Lợi”. Ngày nay chúng ta nghinh thỉnh, tôn thờ chiêm bái đều là toái thân xá lợi, Sanh thân xá lợi của Đức Phật sau khi trà tỳ rồi còn lưu lại gồm có: Bốn chiếc răng và một đốt xương ngón tay. Ngoài hai loại Xá Lợi Phật đã nêu trên chúng ta còn có Pháp Thân Xá Lợi là tất cả giáo lý kinh điển của Đức Phật để lại trên thế gian.

Truyền thống xây tháp phụng thờ Xá Lợi Phật có rất sớm trong Phật Giáo, trong sách Thích Ca Như Lai Ứng Hóa Sự Tích chép: “Kinh Xứ Thai ghi rằng: Lúc bấy giờ có tám vị quốc vương đem binh mã đến thành Câu Thi Na để phân chia Xá Lợi Phật. Tám vị quốc vương gồm có, vua Ưu Điền, vua Đảnh Sanh, Vua Ác Sanh, Vua A Xà Thế và bốn vị chúa của bốn đội binh mã lớn của Ấn Độ cũng đến như, đội quân của vua Tối Hào, đội binh mã vua Dung Nhan, đội binh mã của vua Xí Thạnh, đội binh mã của vua Kim Cang. các vị quốc vương đều muốn Xá Lợi của Phật thuộc về mình. Bấy giờ có vị đại thần tên là Ưu Ba Các can gián rằng, các vua đừng có tranh giành nên phân chia đều ra để phụng thờ cúng dường.

Bấy giờ vua trời là Thích Đề Hoàn Nhân hiện ra dùng tiếng của loài người nói rằng: Ta và chư Thiên chúng cũng phân một phần. Long Vương A Nậu Đạt, Long Vương Văn Lân, Long Vương Hy Na Bát, các vị long vương đều nói chúng tôi cũng chia một phần Xá Lợi. Bây giờ các vị quốc vương và đại thần Ưu Ba Các đêm Xá Lợi chia ra làm ba phần, một phần của chư thiên, một phần của Long vương, một phần cho tám vị quốc vương... khi được Xà lợi rồi chư thiên xây tháp ở trên trời để phụng thờ, Long vương xây tháp dưới long cung để phụng thờ, và tám vị quốc vương đem phần xá lợi được chia của mình về nước xây tháp phụng thờ...”

Tín ngưỡng Xá Lợi cũng như truyền thống xây tháp phụng thờ xá lợi được phổ biến khắp trong thiên hạ, có thể nói là nhờ công lao của Vua A Dục Vương, trong sách A Dục Vương truyện chép: “Bấy giờ vua A Dục đến chùa Chỉ Kê Đầu Ma, nhà vua đến trước Thượng Tọa Da Xá chắp tay bạch rằng: Tôi nay phát nguyện tạo dựng 8 vạn 4 ngàn bảo tháp trên khắp cõi Diêm Phù Đề. Thượng Tọa đáp lời: Lành thay, lành thay.... Vua trở về cung lệnh làm 8 vạn 4 ngàn hòm báu, dùng vàng bạc châu báu để trang trí, trong mỗi hòm báu đều để một viên xá lợi, sau đó lại làm 8 vạn 4 ngàn bình sứ để đựng đồ bảy báu, lại làm 8 vạn 4 ngàn bảo cái, 8 vạn 4 ngàn hoa xếp bằng lụa để làm vật trang nghiêm, cứ một hòm Xá Lợi giao cho một vị Da Xoa, sai đem đi đến khắp nơi trong cõi Diêm Phù Đề. Cứ chổ nào đủ một ức người thì tạo một bảo tháp...” và từ duyên lành này Xá Lợi tháp được tạo dựng khắp trong thiên hạ.

blank

hòm bằng ngọc an trí Phật Chỉ Xá Lợi trong địa cung Bảo Tháp chùa Pháp Môn

Năm phần Sanh Thân Xá Lợi của Đức Phật được tôn thờ ở các nơi như: chiếc răng Xá Lợi Phật thứ nhất được tôn thờ tại bảo tháp tại cung trời Đao Lợi do Vua Đế Thích thỉnh về, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn chép: “Phật Đà nhập Niết Bàn, sau khi trà tỳ xong, Đế Thích Thiên vua của cung trời Đao Lợi cầm bình bảy báu và các phẩm vật cúng dường, đến nơi Đức Phật trà tỳ, trong phút chốc thì lửa liền tắt, Vua Đế Thích mở nắp Kim Quan của Phật, muốn thỉnh xá lợi răng Phật, Ngài A Na Luật liền thưa với Đế Thích rằng: Ngài đừng tự mình thỉnh, mà hãy chờ đại chúng lại phân chia. Vua Đế Thích nói: Phật Đà thuở trước có hứa cho ta một chiếc răng Xá Lợi, vì vậy nay ta đến lấy, nên lửa liền tắt. Đế Thích nói xong liền lập tức mở Bảo quan, lấy chiếc răng Xá Lợi trên hàm trên của Phật. về cung trời Đao Lợi xây tháp phụng thờ cúng dường.

Chiếc răng Xá Lợi Phật thứ hai được tôn thờ tại Bảo tháp chùa MaLaGaWa, thành Phố Kandy nước Tích Lan, được coi là quốc bảo của nước Tích Lan, theo sách Phật Nha Sử chép: “Phật nhập Niết Bàn sau khi trà tỳ xong, còn lưu lại Xương Đầu Xá Lợi, hai xương cổ Xá Lợi và bốn chiếc răng Xá Lợi, trong đó một chiếc răng Xá Lợi được thánh giả Cách Mã gìn giữ. Sau đó thánh giả Cách Mã đem chiếc răng Xá Lợi giao cho vua nước Ca Tuấn Già là Đà Trì Bà La Môn cúng dường, năm 371 tây lịch nước lân bang của Ca Tuấn Già muốn cướp Xá Lợi, gây chiến tranh với nước Ca Tuấn Già. lúc bấy giờ vua nước Ca Tuấn Già là Ca Ha Tắc Ngõa, vì sợ nước lân bang cướp mất, nên ra lịnh cho con gái là Hách Mạn Mạn Lệ đem răng Phật Xá Lợi đến Tích Lan. Bấy giờ vua Tích Lan Cát Trì Xích Lợi Di Văn Kiền thành tín Phật, được vật bảo vô giá, nên tại hoàng cung xây dựng một ngôi chùa để phụng thờ Răng Phật Xá Lợi. Còn ra một sắc lịnh mỗi năm từ ngày mồng 1 đến ngày 12 tháng 4 là ngày quốc lễ răng Phật Xá Lợi”.

Chiếc Răng Xá Lợi Phật thứ ba tôn thờ tại Bảo Tháp chùa Linh Quang, Bắc Kinh, Trung Quốc. Vào thời Nam Bắc triều, Lưu Tống niên hiệu Nguyên Huy thứ ba có nhà sư Pháp hiệuPháp Hiến đi đến nước Vu Điền, cầu học Phật Pháp, sau khi học xong quay về Kiến Khang (Nam Kinh) trước lúc lên đường về nước có một vị Phạm Tăng tặng cho một chiếc hòm bằng thiết, nói rằng trong ấy có Xá Lợi Răng Phật, là vật quý báu nhất thế gian, nay cho nhà ngươi đem về phương Nam cúng dường thờ phụng, hết sức hộ trì hoằng dương Phật Pháp.

blank

Bảo Tháp bằng vàng tôn phụng Phật Chỉ Xá Lợi trong địa cung Bảo Tháp chùa Pháp Môn

Pháp sư Pháp Hiến đem Phật răng Xá Lợi về nước, vì là thánh vật hy hữu cho nên không dám nói cho ai biết, sợ sanh chuyện chẳng lành. Đời vua Tề Huệ Đế, quan chưởng giáo tư đồ là Cách Lăng Vương Văn Tuyên, ngày 29 tháng 6 niên hiệu Vĩnh Minh thứ 7, nằm mộng thấy mình đến Định Lâm gặp Pháp Hiến, Pháp sư Pháp Hiến nằm bịnh trên giường, ông ta liền hỏi Pháp sư: Sanh Lão Bịnh tử bốn thứ khổ, cho đến người đã đắc ngũ thần thông cũng không thể tránh khỏi, Pháp sư ông ngoài y bát ra còn cất những gì để đưa ra làm công đức không? Pháp sư đáp: tôi còn cất một vật vô giá thần bảo, nay giao cho ông, thỉnh ông tự mình mà đi lấy.... tỉnh mộng ông cho là điềm lạ liền đến nơi ở của Pháp sư Pháp Hiến hỏi pháp sư có cất giữ bảo vật gì mà không cho ta xem, Pháp sư giật mình đành phải nói thật về việc cất giữ Xá Lợi Răng Phật, và tự mình đem Xá Lợi Răng Phật đến Văn Tuyên xứ...sau đó xây tháp phụng thờ, đây là truyền thuyết mộng trung được Xá Lợi Răng Phật của tháp Phật Nha chùa Linh Quang Bắc Kinh.

Chiếc Răng Xá Lợi thứ tư theo truyền thuyết là được tôn thờ tại Ấn Độ, thế kỷ thứ 5 Hồi giáo xâm chiếm ấn độ, diệt trừ Phật Giáo được các vị Tăng Ấn Độ đem lên thờ tại Tây Tạng đến khi cuộc cách mạng văn hóa xảy ra ở Trung Quốc, thì các vị Lạt ma đem chiếc răng này chạy xuống Ấn Độ và trong một nhân duyên thù thắng các vị lạt ma đem chiếc răng Phật thứ tư cúng dường cho chùa Phật Quang Sơn Đài Loan và hiện nay chùa Phật Quang Sơn đang xây Phật Đà kỷ niệm tháp để tôn thờ.

Đốt xương ngón tay của Phật hiện nay được tôn thờ tại Chân Thân Bảo Tháp chùa Pháp Môn, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Trong Pháp môn Tự ký chép: “Xá Lợi xương ngón tay của Phật được tôn thờ tại Chân Thân Bảo Tháp chùa Pháp Môn là một trong 19 nơi có Tháp Xá Lợi của Vua A Dục trên đất nước Trung Quốc. Chùa Pháp Môn có tên Là A Dục Vương Tự, đến triều nhà Đường chùa A Dục Vương được đổi tên là chùa Pháp Môn, sau đó do chùa có Xá Lợi ngón tay của Phật nên được triều đình sắc phong trở thành chùa của Hoàng gia.

blank

đây là 7 chiếc hàm đựng Xá Lợi ngón tay Đức Phật

Bảo Tháp Chân Thân chùa Pháp Môn, tôn thờ cúng dường Xá Lợi ngón tay Phật, theo những ghi chép để lại thì bắt đầu từ Đường Cao Tông đến Đường Ai Đế, trãi qua 22 đời vua trong khoảng 290 năm trước sau có 7 lần mở cửa địa cung, 6 lần cung thỉnh Xá Lợi về kinh đô Trường AnLạc Dương để cúng dường. Vào năm 1981, Bảo Tháp 13 tầng làm bằng gạch được trùng kiến vào triều đại nhà Minh, sau một trận mưa lớn bổng nhiên đổ xập, trong khi trùng tu lai tháp, phát hiện địa cung đời Đường dưới tầng móng của bảo tháp, khi khai quật phát hiện thất trùng bảo hàm ở hậu thất trong địa cung, trong bảo hàm an trí cúng dường Xá Lợi ngón tay Phật. Sau khi phát hiện được xá lợi này, tin này được truyền đi lập tức làm kinh động toàn thế giới, vì trên thế giới cho đến thời điểm này Xá Lợi ngón tay Phật lần đầu tiên được phát hiện. Xá Lợi ngón tay Phật chính là thánh vật của Phật Giáo Bắc Truyền, và không chỉ là bảo vật của quốc gia của Trung Quốc, mà còn là vật báu hy hữu của toàn cầu.

Việt Nam cũng có một nơi được vua A Dục dựng tháp, đó là tháp Tường Long ở Đồ Sơn Hải Phòng. Theo sách Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ chép: “thành Nê Lê ở phía Nam huyện Định An, cách sông 7 dặm, tháp và giảng đường do vua A Dục dựng vẫn còn” Trong sách Đạo Phật Việt Nam của HT Thích Đức Nghiệp chép: “Khoảng 300 năm trước tây lịch, nghĩa là: Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ III tại Pataliputra (Hoa Thị Thành) Ấn Độ, do vua Asoka thực hiện; và cũng sau đại hội này đức vua đã gửi chín giáo đoàn đi truyền bá chính pháp tại các nước, từ Afghanistan (A Phú Hãn) tới đông bộ Mediterrenée (Địa Trung Hải), trong đó có một giáo đoàn do hai ngài Sona và Uttara lãnh đạo, đã tới Miến Điện và toàn xứ Đông Dương kể cả Việt Nam.

Nói cách khác, hồi đó, ở Giao chỉ tại thành Nê Lê, tên cũ của vùng Đồ Sơn hiện nay, cách Hải Phòng 12 cây số có bảo tháp vua A Dục (Asoka), do các Phật tử địa phương xây nên, để tri ân vua A Dục (Asoka) đã cử giáo đoàn tới đây để truyền bá Phật pháp”. Qua đó cho thấy tín ngưỡng dựng tháp tôn thờ Xá Lợi Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm, sớm hơn cả miền Giang Đông Trung Quốc.

Đại Sư Khương Tăng Hội Giáo Tổ của Phật Giáo Việt Nam vào năm 247 sau công nguyên, đem Đạo Phật đến truyền báthành Kiến Nghiệp Giang Đông, lúc bấy giờ Kiến Nghiệp (Nam Kinh Trung Quốc) là kinh đô của nhà Đông Ngô một trong ba nước của thời kỳ Tam Quốc, thời Ngô Tôn Quyền, niên hiệu Xích Điểu thứ 10 (247) ở Đông Ngô chưa có tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi.

Trong sách Cao Tăng Truyện có đoạn chép: “Tôn Quyền triệu kiến ngài Khương Tăng Hội và hỏi sư rằng: các vị tu hành có gì là linh nghiệm? sư đáp: Đức Như Lai nhập Niết Bàn đến nay đã 1000 năm, nhưng Xá Lợi mà Ngài lưu lại, vẫn còn tỏa hào quang thần kỳ sáng chói. Từ khi vua A Dục phát tâm đã tạo 8 vạn 4 ngàn bảo tháp để cúng dường, những chùa tháp hùng vĩ ấy, cũng đủ nói rõ sự giáo hóa của Phật Đà lớn rộng và thâm hậu đó sao? Tôn Quyền không tin, cho là lời nói khoa trương không thật, bèn nói vơi ngài Khương Tăng Hội: Nếu như ông có thể cầu được Xá Lợi thì ta sẽ xây Tháp phụng thờ cúng dường”.

blank

Tượng chư Thiên bưng Phật Chỉ Xá Lợi trong địa cung chùa Pháp Môn

Qua đoạn văn trên cho thấy tín ngưỡng tôn thờ Xá lợi xây tháp cúng dường Phật cho đến thể kỷ thứ 2 sau công nguyên vẫn chưa được truyền vào Giang Đông Trung Quốc và người ở đây vẫn chưa có đủ phước duyên để chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật, nhưng ở Việt Nam thì đã rất thịnh hành. Một lần nữa chứng minh cho tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi và tháp A Dục Vương từ rất sớm đã được truyền vào Việt Nam, vì trong khi trã lời cho Tôn Quyền ngài Khương Tăng Hội có nhắc đến.

Theo tài liệu Phật giáo thời nhà Đường (618-907), Trung Quốc có cả thảy 19 nơi có bảo tháp Vua A Dục tôn trí xá lợi Phật. Cho đến nay, người ta cho rằng chỉ mới 7 bảo tháp được phát hiện tại các vùng miền khác nhau của Trung Quốc. Mới đây tại Thành Phố Nam Kinh Trung Quốc người ta phát hiện được bảo tháp của Vua A Dục, tại di chỉ của chùa Đại Báo Ân trong tháp có để Xá Lợi xương đảnh đầu của Đức Phật, có thể nói hiện nay Phật Giáo Bắc Truyền nói chung và Trung Quốc nói riêng, là nơi có nhiều Thánh vật của Phật Giáo nhất, có năm phần chân thân Xá Lợi, thì có hết ba Phần được tôn trí thờ phụng trên đất nước Trung Quốc, như tháp thờ răng Phật ở Bắc Kinh, tháp thờ răng Phật ở Đài Loan, tháp thờ xương đốt ngón tay Phật ở tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc.

Đạo Phật cũng như tín ngưỡng tôn thờ Xá Lợi Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhưng do bối cảnh của lịch sử, trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước, chiến tranh liên miên dân tình khốn khổ, cộng với ách đô hộ tàn bạo độc ác của các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng như phương Tây và tư tưởng đồng hóa văn hóa của các thế lực xâm lược, nên sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam không được thuận lợi như các nước lân cận trong hệ thống Phật Giáo Bắc Truyền như Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng niềm tin đối với Đức Phật sự tôn sùng kính ngưỡng đối với Xá Lợi của Ngài thì không có gì lay chuyển nổi trong tinh thần trái tim con dân Phật Giáo Việt Nam.

blank

Chư Tôn Đức cùng đoàn Phật tử Việt Nam nhân dịp cung thỉnh Giới Bổn tại Chung Nam Sơn đã đến đảnh lễkinh hành trong địa cung nơi Tôn phụng Phật Chỉ Xá Lợi 

“Phật tại thế thời ngã trầm luân
kim đắc nhơn thân Phật diệt độ
áo não thử sanh đa nghiệp chướng
bất kiến Như Lai kim sắc thân”
Tạm dịch:
Khi Phật ở trần đời con trầm luân
Con sanh ra đời Phật diệt độ
áo não đời con nhiều nghiệp chướng
không thấy kim thân Phật ở đời

Như hôm nay có thể tận mắt thấy được Xá Lợi Phật cũng giống như được thấy kim thân của Phật vậy, âu cũng là diễm phúc một đời. Là đệ tử Phật chúng ta nên phát nguyện, từ nay càng nên tinh tấn tu hành, nương theo từ bi, trí tuệ, nguyện lực của Phật để sớm thoát khỏi trần lao đạt đáo giác ngộ giải thoát.

Mùa Phật Đản một lần nữa lại về với mọi người con Phật trên toàn thế giới, kính cẩn nguyện cầu Xá Lợi của Phật thường trụ thế gian, làm nơi quy ngưỡng cho tất cả chúng sinh, làm nơi nương tựa cho tất cả những người con Phật và nguyện cầu oai lực của Xá Lợi Phật gia hộ thế giới hòa bình, đất nước hưng thạnh, nhân dân vui cảnh thái bình, mọi người thấm nhuần từ bitrí tuệ.

Thích Tâm Mãn
Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com - Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú - Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39717)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15318)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13884)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37341)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40068)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14313)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14837)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19225)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13840)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37266)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12683)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11768)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22548)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12513)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12573)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13067)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13113)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33257)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14837)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12459)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51270)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12389)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30422)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13334)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30685)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19368)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11851)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13197)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13199)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30700)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12728)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31907)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29418)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11789)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11752)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10434)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11565)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9643)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9667)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9991)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35405)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10159)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10051)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27811)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15501)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13686)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9848)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9694)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18328)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9574)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8918)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8420)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11483)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31740)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12336)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13322)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8831)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9445)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11943)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9075)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29372)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9108)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33271)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30628)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32273)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27106)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8452)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13017)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant