Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Yoga Tây Tạng về Giấc Mộng và Giấc Ngủ

26 Tháng Tư 201100:00(Xem: 28600)
Những Yoga Tây Tạng về Giấc Mộng và Giấc Ngủ

NHỮNG YOGA TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ
Nguyên tác: The Tibetan Yogas of Dream and Sleep
Nhà Xuất Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998
Việt dịch: Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000

blank
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Dẫn nhập
Nhận những giáo lý
PHẦN MỘT: BẢN TÁNH CỦA GIẤC MỘNG
1 Giấc MộngThực Tại
2 Kinh Nghiệm Khởi Lên Như Thế Nào
Vô minh
Những Hành Động và Kết Quả : 
Nghiệp và những Dấu vết của Nghiệp
Nghiệp Tiêu Cực
Nghiệp Tích Cực
Giải thoát những Xúc Tình
Những Che Ám của Thức
Những Dấu Vết Nghiệp và Giấc Mộng
Sáu Cõi của Sanh Tử Luân Hồi
Cõi Địa Ngục
Cõi Quỷ Đói
Cõi Thú 
Cõi Người
Cõi Bán-Thiên
Cõi Thiên
Tại sao là Xúc Tình ‘Tiêu Cực” 
3 Thân Thể Năng Lực
Những Kinh Mạch và Khí Prana
Những Kinh Mạch (Tsa) 
Khí (Lung)
Khí Nghiệp
Ba Loại Khí Nghiệp
Khí Trí Huệ
Hoạt Động của Khí
Quân Bình Khí
Khí và Tâm Thức
Những Luân Xa 
Con Ngựa Mù, Người Cỡi Què
4 Tóm Tắt : Những Giấc Mộng Khởi Lên 
Như Thế Nào
5 Những Hình Ảnh từ Tantra Mẹ
Việc Dạy những Ẩn Dụ
PHẦN HAI : NHỮNG LOẠI VÀ NHỮNG CÁCH SỬ DỤNG GIẤC MỘNG
1 Ba Loại Giấc Mộng
Những Giấc Mộng Sanh Tử
Những Giấc Mộng của sự Sáng Tỏ
Những Giấc Mộng Tịnh Quang
2 Những Sử Dụng Giấc Mộng
Kinh Nghiệm Trong Mộng
Hướng Dẫn và những Khuyên Nhủ
Dự Đoán
Những Giáo Lý trong Giấc Mộng
3 Khám Phá sự Thực Hành Chošd
4 Hai Mức Độ của sự Thực Hành
PHẦN BA: SỰ THỰC HÀNH YOGA GIẤC MỘNG
1 Cái Nhìn Thấy, Hành Động, Giấc Mộng, cái Chết
2 An Định : Samatha
Samatha cưỡng bách
Samatha tự nhiên
Samatha tối hậu
Những Chướng Ngại
Dao động
Hôn trầm
Giải Đãi 
3 Bốn Thực Hành Căn Bản
Một: Thay Đổi những Dấu Vết Nghiệp
Hai: Dẹp Bỏ Bám Nắm và Ghét Bỏ
Ba: Làm Mạnh Ý Định
Bốn: Trau Dồi Trí NhớNỗ Lực Hoan Hỷ
Kiên Trì
4 Chuẩn Bị cho Ban Đêm
Chín Hơi Thở Tịnh Hóa
Guru Yoga
Thực hành
Che Chở
5 Thực Hành Chính
Đem Tỉnh Giác vào Kinh Mạch Trung Ương
Tăng Cường Sự Sáng Tỏ
Làm Mạnh Sự Hiện Diện
Phát Triển sự Không Sợ Hãi
Tư Thế
Tập Chú Tâm Thức
Trình Tự
6 Sáng Sủa Minh Bạch
Phát Triển tính Linh Hoạt Mềm Dẻo
7 Những Chướng Ngại
Mê Vọng
Lỏng Lẻo
Tự Phóng Dật
Quên
Bốn Chướng Ngại theo Shardza Rinpoche
8 Kiểm SoátTôn Trọng những Giấc Mộng
9 Những Thực Hành Đơn Giản
Tâm Tỉnh Thức
Sửa Soạn cho Đêm
10 Hội Nhập
PHẦN BỐN: GIẤC NG
1 Giấc Ngủ và Rơi Vào Giấc Ngủ
2 Ba Loại Giấc Ngủ
Giấc Ngủ của Vô Minh
Giấc Ngủ Sanh Tử
Giấc Ngủ Tịnh Quang
3 Thực Hành Giấc Ngủ và Thực Hành Giấc Mộng
PHẦN NĂM: SỰ THỰC HÀNH YOGA GIẤC NG
1 Dakini Salgye Du Dalma
2 Thực Hành Sơ Bộ
3 Thực Hành Giấc Ngủ
Đi vào Giấc Ngủ
4 Tiglé 
5 Tiến Bộ
6 Những Chướng Ngại
7 Những Thực Hành Hỗ Trợ
Đạo Sư
Dakini
Hành xử
Cầu Nguyện
Làm Tan Biến
Triển Nở và Thu Rút
8 Hội Nhập
Hội Nhập của Tịnh Quang với Ba Độc
Hội Nhập với Những Chu Kỳ Thời Gian
Thống Nhất Bên Ngoài
Thống Nhất Bên Trong
Thống Nhất Bí Mật
Ba Sự Thống Nhất : Kết Luận
9 Sự Tương Tục
PHẦN SÁU: NHỮNG BỔ SUNG
1 Bối Cảnh
2 Tâm thức và Rigpa
Tâm thức Ý niệm
Tánh giác bất nhị : Rigpa
Rigpa Nền Tảng và Rigpa Con Đường 
3 Nền Tảng : Kunzhi
Tâm thứcvật chất
4 Biết
5 Nhận biết tánh Sáng Tỏtánh Không
Quân Bình
Phân Biện
6 Cái Ngã
7 Nghịch Lý của cái Ngã Vô Tự Tánh
Những Lời Cuối 
PHỤ LỤC : PHÁC HỌA VỀ NHỮNG THỰC HÀNH YOGA GIẤC MỘNG
Thuật Ngữ 
Cuốn sách này được đề tặng cho Namkhai Norbu Rinpoche, ngài đã là một nguồn cảm hứng lớn lao trong đời tôi, 
cả trong cách tôi chỉ dạy cho những người khác 
lẫn trong sự thực hành của chính tôi.

Lời nói đầu

Một câu nói nổi tiếngTây Tạng, “Người ta cần giải thích dòng phái và lịch sử để cắt đứt nghi ngờ về sự chính thống của giáo lý và sự trao truyền.” Bởi thế, tôi bắt đầu cuốn sách này với một câu chuyện ngắn về cuộc đời tôi.

Tôi sinh ra vừa sau khi cha mẹ tôi đi khỏi Tây Tạng. Những điều kiện sống khó khăn và cha mẹ tôi gởi tôi vào một trường nội trú Thiên Chúa giáo, nơi họ hy vọng tôi được chăm sóc. Cha tôi là một lama* Phật giáo, mẹ tôi là một người thực hành đạo Bošn*. Một thời gian sau, cha tôi qua đời. Cuối cùng mẹ tôi tái hôn với một người là lama đạo Bošn. Cả ông và mẹ tôi đều muốn tôi sống trong nền văn hóa của tôi, và khi tôi mười tuổi, tôi được nhận vào tu viện chánh của đạo Bošn ở Dolanji, Ấn Độ, và thọ giới thành một nhà sư.

Sau khi sống ở tu viện một thời gian, tôi được Lopon (Thầy trụ trì) Sangye Tenzin Rinpoche công nhậntái sanh của Khyungtul Rinpoche, một học giả, vị thầy, tác giảthiền sư nổi tiếng. Vị ấy được biết tiếng như một nhà chiêm tinh bậc thầy và nổi tiếng ở miền tây Tây Tạng và miền bắc Ấn Độ như một vị thuần hóa những ma quỷ và hồn linh hoang dã. Vị ấy cũng được quần chúng công nhận như là một nhà chữa bệnh với những khả năng huyền thuật. Một trong những người đỡ đầu của vị ấy là vua xứ Himachal ở bắc Ấn Độ. Nhà vua này và bà vợ, không có con, đã thỉnh Khyungtul Rinpoche chữa cho họ, và ngài đã làm được. Đứa con ấy bây giờ là Thủ Tướng của Himachal Pradesh, Virbhardur.

Khi tôi được mười ba tuổi, bổn sư từ ái của tôi, Lopon Sangye Tenzin, một người hiểu biếtchứng đắc sâu rộng, sửa soạn dạy một trong những giáo lý quan trọng và bí truyền nhất của cổ phái Nyingma và của đạo Bošn: Đại Toàn Thiện (Dzogchen), dòng khẩu truyền Zhang Zhung (Zhang Zhung Nyan Gyud*). Dù tôi còn nhỏ, cha ghẻ của tôi viếng thăm Lopon Rinpoche và xin cho tôi được chấp nhận học giáo lý, điều này sẽ diễn ra mỗi ngày trong suốt ba năm. Lopon từ ái chấp thuận, nhưng yêu cầu tôi, cùng với những học trò đến sau khác, phải kể cho ngài nghe một giấc mộng đêm hôm trước khi khóa học bắt đầu, để ngài xác định sự sẵn sàng của chúng tôi.

Một số học trò không nhớ giấc mộng nào, điều đó được xem là một dấu hiệu của chướng ngại. Lopon bắt họ phải bắt đầu với những thực hành tịnh hóa thích hợp và hỗn khóa học cho tới khi mỗi học trò đều có một giấc mộng. Những giấc mộng của những học trò khác được xem là những chỉ dẫn rằng họ cần làm những thực hành riêng biệt để tự sửa soạn học giáo lý – chẳng hạn, làm những thực hành để mạnh thêm sự nối kết với những hộ pháp.

Tôi mơ thấy một chiếc xe buýt chạy vòng quanh nhà của thầy tôi, dù thực ra không có con đường nào ở đấy cả. Trong giấc mộng, người lái xe buýt là bạn của tôi và tôi đứng cạnh nó, phân phát những cái vé cho những người trên xe. Những chiếc vé là những mảnh giấy có viết chữ A Tây Tạng lên đó. Lúc ấy là năm thứ hai hay thứ ba của tôi ở Dolanji, khi tôi mười ba tuổi, và khi ấy tôi chưa biết chữ A là một biểu hiện ý nghĩa chính yếu của những giáo lý Đại Toàn Thiện. Thầy tôi không hề nói gì về giấc mộng, đó là cách làm của thầy. Ngài bình luận chút ít về điều gì là tốt, nhưng tôi thì vui vẻ vì được chấp nhận học những giáo lý.

Trong những truyền thống Tây Tạng, thường là những giấc mộng của học trò được vị thầy dùng để xác định có thích hợp hay không cho học trò nhận một giáo lý riêng biệt. Dầu cho việc này xảy ra trước khi tôi bắt đầu nghiên cứuthực hành yoga giấc mộng, thì sự cố ấy cũng là sự bắt đầu quan tâm thích thú của tôi với những giấc mộng. Nó gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi giấc mộng được đánh giá trong văn hóa Tây Tạng là lớn lao thế nào và thông tin từ vô thức thường có giá trị hơn thông tin từ ý thức như thế nào.

Sau ba năm học, gồm nhiều cuộc nhập thất thiền định với đồng bạn cũng như nhiều cuộc nhập thất một mình, tôi vào Trường Lý Luận thuộc Tu viện. Chương trình học thường kéo dài chín đến mười ba năm. Chúng tôi được học những môn như văn phạm, Sankrit, thơ, chiêm tinh, nghệ thuật và cũng học những môn riêng : ngữ nguyên học, vũ trụ học, kinh (sutra*), tantra* và Đại Toàn Thiện. Trong sự tu hànhtu viện, tôi được trình bày cho một số giáo lý và trao truyền về giấc mộng, cái quan trọng nhất căn cứ trên những bản văn của Zhang Zhung Nyan Gyud, Tantra Mẹ và của Shardza Rinpoche.

Tôi đã làm tốt trong việc tu hành và khi mười chín tuổi, tôi được mời bắt đầu dạy cho người. Cùng khoảng thời gian đó tôi viết và xuất bản một tóm tắt tiểu sử của Đức Shenrab Miwoche*, vị sáng lập đạo Bošn. Về sau tôi trở thành hiệu trưởng Trường Lý Luận và giữ chức vụ này trong bốn năm, và đã rất say mê trong việc hình thành và phát triển trường. Năm 1986, tôi nhận cấp bậc Geshe, cấp bậc cao nhất trong giáo dục tu viện của Tây Tạng.

Năm 1989, nhận lời mời của Hội Đại Toàn Thiện của Namkhai Norbu Rinpoche ở Ý, tôi du lịch qua Tây phương. Dù tôi không có chương trình giảng dạy, tôi được những thành viên của hội mời giảng. Một hôm tôi phân phối những mảnh giấy có viết chữ A Tây Tạng trên đó. Đúng vào lúc ấy giấc mộng từ mười lăm năm trước, trong đó tôi phân phát cũng tờ giấy như vậy cho người trên xe buýt trở lại với tôi. Chuyện này như thể đánh vào đầu tôi.

Tôi ở lại Tây phương và năm 1991 được học bổng của Rockefeller Fellowship để nghiên cứu tại Đại học Rice. Năm 1993, tôi xuất bản cuốn sách đầu tiên của tôi ở Tây phương, Những Kỳ Diệu của Tâm Tự Nhiên (lời đề tựa của Đức Dalai Lama), trong đó tôi cố gắng trình bày những giáo lý Đại Toàn Thiện (Dzogchen) trong một cách thức trong sáng và giản dị. Năm 1994 tôi được cho một trợ cấp từ Quỹ Quốc Gia cho những Khoa Học Nhân Văn để theo đuổi nghiên cứu về những phương diện luận lý và triết lý của truyền thống Bošn, hợp tác với giáo sư Anna Klein, Trưởng khoa nghiên cứu Tôn giáo, ở Đại Học Rice.

Như thế mặt học giả của tôi đã tiếp tục biểu hiện, tuy nhiên thực hành luôn luôn quan trọng hơn, và suốt cả thời gian này tôi đã chuyên chú vào giấc mộngthực hành giấc mộng. Sự lưu tâm của tôi không chỉ về lý thuyết. Tôi đã tin sự minh triết của những giấc mộng, bị ảnh hưởng từ thời nhỏ tuổi bởi những kinh nghiệm giấc mộng của những vị thầy của tôi và của mẹ tôi và bởi sự sử dụng những giấc mộng trong truyền thống Bošn, và tôi đã thực hành yoga giấc mộng một cách mãnh liệt suốt mười năm qua. Mỗi đêm khi tôi vào giường, tôi cảm thấy tự do. Sự bận rộn của ban ngày chấm dứt. Một số đêm sự thực hành thành công và một số đêm thì không, và như thế cho đến khi sự thực hành rất tiến bộ. Tuy nhiên, gần như tôi đi ngủ mỗi đêm với ý định hoàn thành thực hành giấc mộng. Chính từ kinh nghiệm riêng của tôi với sự thực hành, cũng như từ ba bản văn tôi dẫn ra ở trên, mà những giáo lý trong sách này có được.

Những Yoga Tây Tạng về Giấc Mộng và Giấc Ngủ sinh ra từ những chỉ dạy miệng tôi đã đưa ra ở California và New Mexico vài năm trước. Nhiều cái không chính thức nhưng góp phần vào những giáo lý đã được giữ. Những chữ có đánh dấu hoa thị trong lần đầu xuất hiện có thể được tìm thấy trong thuật ngữ cuốn sách.

Yoga giấc mộng là một chỗ nương dựa hàng đầu trong việc phát triển sự thực hành của tôi và cái ấy đã đúng cho nhiều, rất nhiều đạo sư và yogi* của Tây Tạng. Thí dụ, tôi luôn luôn có ấn tượng với câu chuyện của Shardza Rinpoche, một đạo sư vĩ đại Tây Tạng, khi chết vào năm 1934, đã đạt được thân thể ánh sáng (jalus*), một dấu hiệu chứng đắc hoàn toàn. Trong đời ngài, ngài có nhiều học trò thành tựu, viết nhiều bản văn quan trọng, và làm việc cho lợi lạc của xứ sở ngài sống. Khó mà tưởng tượng làm thế nào ngài đã có năng xuất như vậy trong đời sống bên ngoài, hoàn tất nhiều nhiệm vụ và những kế hoạch lâu dàilợi lạc của những người khác, và còn có thể hoàn thành sự chứng đắc như vậy qua thực hành tâm linh. Ngài có thể làm như thế bởi vì ngài không phải là một người viết sách trong một phần của ngày, một vị thầy trong một phần khác, và một hành giả trong một vài giờ còn lại. Tất cả cuộc đời ngài là thực hành, dù ngồi thiền định, viết, dạy hay ngủ. Ngài viết rằng thực hành giấc mộng là quan trọng trung tâm trong hành trình tâm linh của ngài và không thể thiếu cho sự chứng đắc của ngài. Điều này cũng có thể là đúng với chúng ta.

Dẫn nhập

Chúng ta tiêu dùng một phần ba cuộc đời mình để ngủ. Bất kể chúng ta làm gì, những hành động của chúng ta là thiện hay bất thiện, dù chúng ta là những kẻ sát nhân hay những bậc thánh, tu sĩ hay kẻ phóng đãng, mỗi ngày đều chấm dứt như nhau. Chúng ta nhắm mắt và tan biến vào bóng tối. Chúng ta làm như vậy không có gì sợ hãi, ngay cả khi mọi sự mà chúng ta biết như là “cái tôi” biến mất. Sau một khoảng thời gian ngắn, những hình ảnh khởi lên và cảm thức về bản ngã cũng khởi lên với chúng. Chúng ta lại hiện hữu trong cái thế giới có vẻ vô biên của giấc mộng. Mỗi đêm chúng ta tham dự vào những cái huyền diệu sâu thẳm nhất ấy, chuyển từ một chiều kích của kinh nghiệm qua một chiều kích khác, mất cảm thức về cái ngã và lại tìm thấy nó, và tuy nhiên chúng ta coi mọi sự đó là dĩ nhiên. Chúng ta thức dậy buổi sáng và tiếp tục trong cuộc đời “thực”, nhưng trong một nghĩa nào, chúng ta vẫn đang tiếp tục ngủ và mộng. Những giáo lý nói với chúng ta rằng chúng ta có thể tiếp tục mãi mãi ở trong trạng thái mộng mị hư vọng này, ngày qua đêm, hay thức dậy với chân lý, với sự thật.

Khi chúng ta dấn thân vào những yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ, chúng ta trở nên thành phần của một dòng phái dài. Qua nhiều thế kỷ, những người đàn ông và đàn bà đã từng làm cùng những thực hành này, đương đầu với những nghi ngờchướng ngại như chúng ta, và đã nhận được những lợi lạcchúng ta có thể có. Nhiều lama cao cấp và nhiều yogi thành tựu đã lấy yoga giấc ngủ và yoga giấc mộng làm những thực hành hàng đầu, và qua chúng đã đạt đến chứng ngộ. Suy nghĩ về lịch sử này và nhớ lại những người đã hiến trọn đời mình cho những giáo lý – những tổ tiên tâm linh của chúng ta, họ truyền lại cho chúng ta những quả của sự thực hành của họ qua những giáo lý này – sẽ làm phát sanh niềm tinbiết ơn vào truyền thống.

Một số vị thầy Tây Tạng có thể cho là lạ lùng khi tôi dạy những thực hành này cho người Tây phương, những người chưa làm những thực hành sơ khởi nhất định hay chưa có những hiểu biết nhất định. Theo truyền thống những giáo lý được giữ gìn như những lời dạy bí mật, vừa như một biểu hiện của sự tôn kính vừa như một sự bảo vệ khỏi bị pha lỗng vì hiểu sai của những hành giả chưa được chuẩn bị. Chúng không bao giờ được dạy công khai hay ban cho một cách thoải mái, mà được giữ gìn cho những cá nhân đã sửa soạn để nhận lãnh chúng.

Những thực hành vẫn hiệu quảgiá trị như bao giờ, nhưng những điều kiện hoàn cảnh trong thế giới đã thay đổi, và thế nên tôi đang cố gắng làm một cái gì khác. Tôi hy vọng rằng bằng cách dạy cái gì có hiệu quả, một cách công khaiđơn giản, truyền thống sẽ được bảo tồn tốt hơn và nhiều người hơn sẽ có thể được lợi lạc từ đó. Nhưng quan trọng là phải tôn trọng những giáo lý, cả trong việc bảo vệ chúng lẫn trong việc làm tiến thêm sự thực hành của chúng ta. Xin hãy cố gắng nhận sự trao truyền trực tiếp những giáo lý này từ một vị thầy chính thức. Là tốt khi đọc những yoga này, nhưng tốt hơn nếu nhận sự trao truyền bằng miệng, nó tạo ra một nối kết mạnh mẽ hơn với dòng phái. Cũng như sẽ dễ dàng đương đầu với những chướng ngại trên con đường khi có một vị thầy kinh nghiệm có thể nhận dạy chúng và giúp đỡ cởi dẹp chúng. Đây là một điểm quan trọng chớ nên quên.

Cuộc đời làm người của chúng ta là quý giá. Chúng tathân tâm nguyên vẹn, với đầy đủ tiềm năng. Chúng ta có thể đã gặp những vị thầy và đã nhận những giáo lý, và chúng tacuộc đời tự do để theo con đường tâm linh. Chúng ta biết sự thực hành là thiết yếu cho hành trình tâm linh cũng như cho nguyện vọng giúp đỡ những người khác của chúng ta. Chúng ta cũng biết cuộc đời qua nhanh và cái chết thì chắc chắn, tuy nhiên trong cuộc sống bận rộn chúng ta thấy khó thực hành nhiều như chúng ta muốn. Có lẽ chúng ta thiền định một hay hai giờ một ngày, nhưng lại để hai mươi hai giờ kia tiêu mất trong phóng dật và lắc lư trên những ngọn sóng của sanh tử*. Thế mà luôn luôn có thì giờ để ngủ; một phần ba cuộc đời chúng ta tiêu xài vào giấc ngủ có thể dùng để cho thực hành.

Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởngchúng ta ít bị sự cai trị bởi những lo toan và phóng dật thói quen. Chúng ta khai triển một sự hiện diện vững chắcsống động cho phép chúng ta chọn lựa khéo léo thiện xảo hơn những đáp ứng với bất cứ cái gì sanh khởi, những đáp ứng làm lợi lạc tốt nhất cho những người khác và chính cuộc hành trình tâm linh của chúng ta. Cuối cùng chúng ta khai triển một sự liên tục của tỉnh giác cho phép chúng ta duy trì tỉnh giác trọn vẹn trong giấc mộng cũng như trong đời sống lúc thức. Bấy giờ chúng ta có thể đáp ứng với những hiện tượng mộng theo những cách sáng tạotích cực và có thể hoàn thành những thực hành khác nhau trong trạng thái mộng. Khi chúng ta hoàn toàn phát triển khả năng này, chúng ta sẽ tìm thấy rằng chúng ta sống cuộc đời thức và mộng với thoải mái, tiện dụng, sáng tỏ và hân thưởng lớn hơn, và chúng ta cũng sẽ tự chuẩn bị để đạt đến giải thoát trong trạng thái trung ấm (bardo*) sau cái chết.

Những giáo lý cung cấp cho chúng ta nhiều phương pháp để cải thiện phẩm tính của đời sống bình thường. Điều ấy tốt, vì cuộc đời này thì quan trọng và xứng đáng. Nhưng luôn luôn sự sử dụng tối hậu những yoga này dẫn chúng ta đến giải thoát. Vì mục đích đó, cuốn sách này sẽ được hiểu như là một cẩm nang thực hành, một hướng dẫn vào những yoga của những truyền thống Phật giáo và Bošn Tây Tạng, chúng dùng những giấc mộng để đạt đến giải thoát khỏi mộng tưởng điên đảo của đời sống bình thường và dùng giấc ngủ để tỉnh dậy khỏi vô minh. Dùng cuốn sách theo lối này, bạn nên có một mối liên hệ nối kết với một vị thầy đạo hạnh. Bấy giờ, để làm vững chắc ổn định tâm thức, hãy làm những thực hành an định (samatha, TT : zhiné*) trong Phần Ba. Khi bạn cảm thấy sẵn sàng, hãy bắt đầu những thực hành sơ bộ và tiêu tốn một số thì giờ với chúng, hội nhập chúng vào đời sống bạn. Rồi hãy bắt đầu những thực hành căn bản.

Không có gì phải hấp tấp. Chúng ta đã lang thang, lặn lội trong những ảo tưởng của sanh tử từ thời vô thủy. Chỉ đọc cuốn sách khác về tâm linh và rồi quên nó thì chỉ thay đổi chút ít trong đời sống. Nhưng nếu chúng ta theo những thực hành này đến chỗ cuối cùng của chúng, chúng ta sẽ tỉnh dậy với bản tánh bổn nguyên của chúng ta, nó là tự thân giác ngộ.

Nếu chúng ta không thể giữ hiện diện trong giấc ngủ, nếu chúng ta mất mình mỗi đêm, chúng ta có cơ may nào để tỉnh thức khi cái chết đến? Nếu chúng ta đi vào những giấc mộng của chúng ta và tương tác với những hình ảnh của tâm thức như thể chúng là thực, chúng ta không nên hy vọng được tự do trong trạng thái sau cái chết. Hãy nhìn vào kinh nghiệm của bạn trong những giấc mộng để biết bạn sẽ sống như thế nào trong cái chết. Hãy nhìn vào kinh nghiệm của bạn khi ngủ để khám phá bạn có được tỉnh thức hay chưa.

NHẬN NHỮNG GIÁO LÝ

Cách tốt nhất để nhận những giáo lý tâm linh truyền miệng hay được viết ra là “nghe, tóm kết và kinh nghiệm”, đó là, hiểu một cách trí thức cái được nói, tóm kết ý nghĩa của nó, và áp dụng nó trong thực hành. Nếu sự học được tiếp cận theo lối này, tiến trình học là liên tục và không ngừng, nhưng nếu nó dừng lại ở mức độ trí thức, nó có thể trở thành một rào cản cho thực hành.

Khi nghe hay nhận những giáo lý, người học trò tốt thì giống như một bức tường phủ keo : hạt cỏ ném vào đó đều dính vào đó. Một học trò dở thì giống như một bức tường khô: cái gì ném vào cũng rơi tuột xuống sàn. Khi những giáo lý đã nhận được, chúng cần phải không bị mất đi hay phung phí. Học trò cần phải giữ lại những giáo lý trong tâm thức mình, và làm việc với chúng. Những giáo lý không được thâm nhập với hiểu biết thì giống như những hạt cỏ ném vào bức tường khô; chúng rớt xuống sàn và bị quên lãng.

Đi đến những kết luận về ý nghĩa của những giáo lý thì giống như bật đèn trong một phòng tối : cái bị che dấu trở nên sáng rõ. Nó là kinh nghiệm “a ha !” khi bậc công tắc lên và mọi sự được hiểu ra. Nó khác với cái hiểu ý niệm giản đơn ở chỗ nó là cái gì chúng ta biết hơn là cái gì chúng ta chỉ nghe. Thí dụ, nghe nói về những cái gối vàng và đỏ trong một buồng thì giống như có một cái hiểu trí thức về chúng, nhưng nếu chúng ta vào buồng khi tối, chúng ta không thể nói cái gối nào là màu gì. Tóm kết ý nghĩa thì giống như bật đèn lên : bấy giờ chúng ta trực tiếp biết màu đỏ và màu vàng. Giáo lý không còn là cái gì chúng ta chỉ có thể lập lại, nó là phần của chúng ta.

“Áp dụng trong thực hành” nghĩa là chuyển cái đã được hiểu một cách ý niệm – cái đã nhận được, suy nghĩ và làm thành ý nghĩa – thành ra kinh nghiệm trực tiếp. Tiến trình này tương tự với việc nếm muối. Muối có thể được nói đến, bản chất hóa học của nó được hiểu và vân vân, nhưng kinh nghiệm trực tiếp chỉ có khi nó được nếm. Kinh nghiệm ấy không thể nắm bắt một cách trí thức và không thể truyền đạt bằng lời. Nếu chúng ta cố gắng giải thích nó cho ai đó chưa hề nếm muối, họ sẽ không hiểu cái mà chúng ta đã kinh nghiệm. Nhưng khi chúng ta nói về nó cho người đã có kinh nghiệm, bấy giờ cả hai bên đều biết chuyện ấy là gì. Cũng như thế với những giáo lý. Cách nghiên cứu chúng là thế này: nghe hay đọc chúng, nghĩ về chúng, tóm kết ý nghĩa, và tìm thấy ý nghĩa trong kinh nghiệm trực tiếp.

Tây Tạng những da thuộc mới được phơi dưới ánh mặt trời và chà với bơ cho mềm hơn. Hành giả cũng như tấm da mới, bền và cứng với những quan điểm chật hẹp và ý niệm khô cứng. Giáo pháp thì giống như bơ, được chà qua thực hành, và mặt trời như kinh nghiệm trực tiếp; khi cả hai được áp dụng hành giả trở nên mềm và dễ uốn nắn. Nhưng bơ cũng được cất trong các bao bằng da. Khi bơ được để trong một cái bao vài năm, da của cái bao trở thành cứng như gỗ và không biết bao nhiêu bơ mới để có thể làm mềm nó. Người nào để nhiều năm nghiên cứu những giáo lý, trở thành nhiều trí thức mà ít kinh nghiệm thực hành, thì giống da thuộc cứng ngắc ấy. Những giáo lý có thể làm mềm tấm da cứng của vô minh và sự bị quy định, nhưng khi chúng được cất vào trí óc và không được chà xát vào hành giả với thực hành và làm ấm với kinh nghiệm trực tiếp, người ấy có thể trở nên khô cứng trong cái hiểu trí thức. Bấy giờ những giáo lý mới sẽ không làm mềm dịu y, không thấm vào và thay đổi y. Chúng ta phải coi chừng không chất chứa những giáo lý như chỉ là cái hiểu ý niệm vì sợ rằng cái hiểu ý niệm trở thành một cản ngại cho trí huệ. Những giáo lý không phải là những ý tưởng để sưu tập, mà là con đường để đi theo.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10140)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10413)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23616)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11854)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10080)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28695)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21630)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29423)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11395)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12372)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26341)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31040)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25345)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22819)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13057)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21951)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12232)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14145)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11247)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10695)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38070)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13674)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13470)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12354)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12591)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12059)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11218)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23369)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33208)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12803)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7397)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12191)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12624)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12051)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12873)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11945)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10705)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11376)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11672)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10874)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10809)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10377)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10493)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10714)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10635)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11918)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10700)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12740)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10810)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11392)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11095)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11638)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10517)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11265)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12308)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11172)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12491)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11428)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11515)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11302)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11592)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12999)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14180)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11876)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13176)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11582)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11437)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10938)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11292)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10821)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11064)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10897)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10268)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17113)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11014)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10868)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10412)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10763)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11387)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11085)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10580)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11382)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10355)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10656)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12771)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19279)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19709)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21293)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20340)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19771)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19053)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20496)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21097)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17935)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21856)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant