Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhặt dấu thời gian

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11036)
Nhặt dấu thời gian

NHẶT DẤU THỜI GIAN

Cư sĩ Liên Hoa

Một con người ngàn xưa 
đã có mặt nơi đây

giữa đất trời bao la

blankcảnh trí thiên nhiên thật đẹp

lòng không còn vướng bận

nguyện lớn rộng vô cùng, đã vuông tròn

với đời sống giản dị, bình thường

không danh không lợi

từ bỏ ngai vàng, sắc đẹp

bỏ tuổi thanh xuân

bỏ lòng tư ẩn

vì nước mắt khổ đau muôn loài

khoác chiếc y vàng hoại sắc

bình bát đi vào đời

từng lời nói chân tình, ngát hoa tuệ giác,

chan hoà, no ấm lòng người

từng nụ cười, dáng đi, sen vàng nở rực 

từ tấm lòng, mưa pháp tuôn rơi

trời người đều lợi lạc 

là bóng mát chở che tình nhân loại

lòng từ bao phủ khối u minh

lặng nhìn, ngưỡng lạy Đấng Từ Tôn

trời người chắp tay, lắng nghe tiếng pháp âm

hận thù không còn đất sống

vô minh từng lúc cúi đầu

tâm người vang rền đời tự tại, an vui

môi mỉm nụ cười, ngát hương giải thoát…

 Minh Thanh 

Sáng nay, ra vườn để tưới các cây cảnh đang trồng, vỏn vẹn chỉ có vài cây: chậu trúc thân cây ốm yếu, lụ khụ như tiên ông màu vàng xanh, lá mảnh mai, rung rinh theo gió. Chậu hoa quỳnh có vài nhánh hoa quỳnh đang cười héo xọp lại sau một đêm nở, ôi quỳnh hương của tối nở sớm tàn, mong manh như cuộc đời dù bần hèn, dù vương giả, đài các v.v… nhưng ẩn tàng, phảng phất vô thường….Chậu cây bồ đề, thân uốn khúc, vững vàng gốc rễ như tự lâu đời, lá lớn, đuôi lá nhọn dài, mang dáng dấp của hình trái tim, tim cuộc đời, tim con người hay tim được mở rộng đến tâm của muôn loài, trong tuệ giác…

Được săn sóc chỉ vài cây kiểng sau nhà, nhiều lúc là cái thú nhàn nhã, an bình, làm cho tâm hồn đầm xuống, nhưng đôi khi lại chợt buồn, giao động khi nhìn thấy cây ốm yếu hay lá rụng dù đã đổi sang vàng úa hay còn xanh tươi, lìa khòi cành, mang dấu vết mông lung của cuộc ra đi vô tận.

Thoang thoảng đâu đây, hương thơm nhẹ nhàng, dịu ngọt toả cả một không gian lớn. Ồ, mùi hương của mai chiếu thủy. Lúc bé, tôi đã say mê hương nầy, khi được đến thăm viếng nhà những người thân quen lớn tuổi, nhà có vườn và cây cảnh. Những cây mai chiếu thủy được uốn mình theo dáng của bonsai, nhiều kiểu, nhiều tầng, có những nụ họa thon nhỏ bum búp trắng, như cánh thủy tinh dễ vỡ, như giọt sương mai dễ tàn… Cái cánh hoa bé bỏng, mỏng manh nhưng hương thơm kỳ diệu làm cho tâm người lắng đọng, trầm tỉnh. Có một cái gì quyến rủ trong chiều sâu của hương thơm giải thoát nầy, mang sức sống mãnh liệt. Do đó, dù trong cái vườn nhỏ nầy, dĩ nhiên; tôi cũng phải có cây mai chiếu thủy, để mùi hương dìu dắt khứu giác đi vào vùng tưởng tượng, vẫn biết đó là chấp pháp, để cho ngoại cảnh chi phối.

Nhà tôi lúc trước ở Harvey, Louisiana. Louisiana là một tiểu bang có nhiều sắc tộc, đậm đà nhất là người da mầu, trong đó người Việt Nam có mặt, sau cuộc đổi đời, biến cố tang thương của đất nước. 

Nếu ai đã có dịp đến New Orleans, Louisiana, có vận động trường Super Dome to lớn, mang hình dáng như cái bánh bao (do người Viêt đặt tên), đến viếng thăm khu phố cổ French Quarter. Nơi đây có quán Café du Monde đã hiện diện trên 100 năm qua, có khu Bourbon Street với những hình ảnh trần tục của con người. Đi bộ dọc theo con đường Canel- con đường chính của New Orleans, thỉnh thoảng thấy có những nghệ sĩ với cây saxophone, thổi những bản nhạc jaz… tiếng nhạc trầm bổng, réo rắc như lời ai oán của những người bị làm nô lệ năm nào, có thể làm nức nẻ tim người lắng nghe. Tôi rất mê tiếng kèn saxophone nầy, nhiều khi lắng lòng để thưởng thức, qua đó, tôi cảm nhận và bắt gặp được cuộc đời của tôi, của biết bao nhiêu người Việt tha hương, nhận nơi đây làm quê hương thứ hai. Ai cũng có quê hương, dù đẹp hay xấu, vẫn vang lên tận trong lòng những nhớ nhung sâu lắng. Đó là quê hương của tuổi thơ, của lớn lên, trưởng thành, bâng khuâng, chen chân vào đời, để tìm một hướng đi, bước đến tương lai. Có những con đường quen thuộc trên những nẻo đuờng của Saigon thuở nào, với biết bao nhiêu là kỷ niệm đẹp. Những hàng cây trải dài, những đám mây lơ lửng, những ngày nóng, nắng chói chang, những cơn mưa vội vả đi về v.v… tất cả những hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, con đường… đã làm cho tai mắt mũi luỡi thân ý bơi lội, vẫy vùng, làm chất liệu phù sa để bồi đắp cho dòng sống của con sông, con rạch tâm linh hướng chảy ra biển cả mênh mông.

Tôi còn có một quê hương tâm linh, là suối nguồn tươi mát, êm dịu, thanh thoát đã đang sẽ là dòng nuớc thanh luơng tưới tẩm ôm ấp cho nhân loại- nói chung, qua bao nhiêu bỉ cực, đói nghèo tâm hồn, khổ nạn của cuộc đời thiếu vắng bóng từ bi, thân thiện… và nói riêng, đã chia sẻ ấm no, bùi ngọt trong biết bao nhiêu là vinh nhục, thăng trầm suốt dòng lịch sửsinh mệnh của con người và đất nước Việt. 

Tôi hiểu được sự đơn giản, bình dị nhưng đầy lợi lạc trong suối nguồn vi diệu của Giáo pháp Đạo Phật. Phật giáo nhẹ nhàng, thanh thoát như hương thơm giải thoát của các loài hoa lan, mai chiếu thủy v.v.. lan toả cho mọi người - dù có duyên hay không - vẫn bình đẳng tưới tẩm hay như trận mưa diệu pháp ngào ngạt từ tâm, tuôn xuống, thấm nhuần tất cả các loài, cây cối, dù cao thấp, dù lớn nhỏ…

Nhưng, cũng từ nơi suối nguồn diệu pháp này, những lời dạy như “Ba cõi không an, giống như nhà lửa”, là những tiếng chuông cảnh tỉnh đế mọi người về sự hiện hữu mong manh của vạn pháp, sự bất an của cuộc sống, sự ưu tư, lo lắng, đau khổ của tâm bất an… tất cả như quyện nhau lôi kéo mọi tâm hồn cần đến chất liệu giải thoát của Đạo Phật.

Đoàn xe chở người đi hành hương đã vượt qua bao nhiêu là cây số ngàn, tưởng chừng như nếu kéo một đuờng thẳng, sẽ không bao giờ nhìn thấy được cuối đường. Nhưng, tự trong tâm trí, hình ảnh của Đức Phật đã ngự trị, chiếm trọn như đôi bàn tay diệu hiền của bà mẹ ôm trọn đưá con của mình, làm lòng ấm áp, thư thái, an lạc

Đã bao ngàn năm trôi qua, hình ảnh đó, tấm lòng đó, sự thị hiện giữa cuộc đời uế trược với tư thái, với tuệ giác vô cùng, với từ bi vô lượng đã hiện diện không cùng tận trong tâm người con Phật. Mỗi lời nói, mỗi chân ngữ, mỗi lời thuyết giảng của Ngài đều làm cho mọi sinh linh tự quán chiếu lại mình để nhận chân được tánh Phật vẫn sáng ngời, soi chiếu trong tâm. Đó cũng là mãnh lực vi diệu vô cùng đã dẫn tất cả mọi người trong đoàn hành hương trên đất Phật tiến bước, dù mồ hôi có đổ xuống, dù gian nan, dù nhiều lúc bị đói mệt v.v… nhưng môi vẫn nở nụ cười, lòng vẫn hoan hỷ, không thay đổi, không sờn lòng, biến chuyển, vẫn sắt son với ước nguyện của khởi đầu dấn bước theo cuộc hành trình.

Càng vưọt qua những chặng đường dài, càng cảm nhận được hết tấm lòng của Bậc Đại Giác, đã không trụ vào Niết bàn, mà vì sự khổ đau của muôn người, dẫm những bước chân trên các nẻo đuờng trần gian, chuyển bánh xe Pháp.

Ấn Độ của những ngày cuối tháng 11 và đầu tháng 12 vẫn còn đầy nắng nóng, như thách thức với tấm lòng của mọi người… nhưng, đoàn người đã tới được thành Xá Vệ (Sravasti) sau khi qua đoạn đường quá dài, gập ghềnh, cát bụi, mệt lã người. Những hoạt cảnh nối tiếp ở hai bên đường, hình như không còn ai muốn để tâm, chú ý đến. Cũng xứng đáng để đến được nơi đây cũng như may mắn là đi hành hương về đất Phật trong những năm tháng sau nầy, vì so với những năm về trước, thì đường xá đã tốt hơn, số người đi chiêm bái đất Phật ngày càng đông, nên những dịch vụ để phục vụ cho sinh hoạt của du kháchcải thiện và phát triển nhiều hơn. 

Thành Xá Vệ là Kinh Thành lớn mà xưa kia thuộc Thủ phủ của nước Kosala, do Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) cai trị. Theo lịch sử ghi lại, Vua Ba Tư Nặc có người con trai là Thái tử Tỳ Lưu Ly - người đã tàn sát dòng họ Thích, dù đã ba lần Đức Phật can ngăn, nhưng vì nghiệp lực, nhân quảhận thù của quá khứ của hai dòng họ, nên đã không được giải kết

Đoàn tiếp tục tiến vào khu vườn Tịnh xá Kỳ Viên (Jetvana), do Ngài Truởng giả Cấp Cô Độc phát tâm bằng cách lát vàng mua khu vườn của Thái tử Kỳ Đà để dâng cúng Đức Phật cư ngụtruyền bá Giáo Pháp, như nhiều Kinh sách của Phật giáo đề cập đến. Khu Tịnh xá nầy rộng chừng 2 mẫu. Trước cổng vào nơi Tịnh xá thiêng liêng nầy, có trồng cây BÒ ñŠ A Nan (Anand Bodhi). Theo sử ghi lại là do Ngài MahaMoggallana (Mục Kiền Liên) lấy giống từ cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng đem về trồng do theo lời thỉnh cầu của Ngài A Nan. Từng bước, từng chỗ, từng mảnh đất đi qua tại Thánh tích nầy, tất cả như làm sống dậy hết tất cả những hình ảnh xưa cũ, nhưng hoạt cảnh đó lại hiện hữu trên từng chân bước, cảm nhận được của giờ phút hiện tại…

Đoàn đến nơi Hương Thất của Đức Phật, hiện nay chỉ còn lại nền bằng gạch, nơi mà xưa kia Đức Phật thường trú ngụ qua 24 mùa Hạ và cũng từ nơi đây, nhiều bộ Kinh quan trọng của Phật giáo đã được thuyết giảng còn lưu truyền đến ngày nay. Nơi giữa chỗ Phật ngụ, hoa đang rải phủ ngập, màu đỏ rực, hương thơm nhẹ nhàng vi diệu toả ra chung quanh hoà lẫn với hoa của các cõi trời rải xuống cúng dường. Hạnh phúc thay! Vui mừng thay! Nhưng làm sao có thể biểu lộ được tất cả tấm lòng nầy để dâng lên Phật. Có một mãnh lực nào đó, mà đã biết bao con người đến đây, đều tự động đồng loạt quì xuống, chiêm ngưỡng. Đâu cần phảilời nói, có ngôn ngữ, nhưng sự im lặng, lắng sâu vào trong nội tâm… thì càn khôn, vũ trụ như đã dừng lại, nương theo tấm lòng của người con Phật, để thấy tánh không tịch, để thấy sự cảm ứng của đạo vị không nghĩ bàn.

Cũng từ cõi đất nầy, đã và đang có bao nhiêu là các vị Bồ Tát (Tòng địa dũng xuất) từ đất hiện lên để xưng tán, để vi nhiểu, đảnh lễ Đức Phật, vị Đại Giác Ngộ đã đem lại lợi lạc cho biết bao nhiêu con người, vạn loại và cũng chính là để tự xác quyết vào chính mình, bước đuờng đi của các vị Bồ Tát với tâm không thoái chuyển, là nhân hạnh thành Phật của tương lai. Ngày xưa, có những con người đã có mặt nơi đây, nghe Phật giảng dạy, nhận thức được Tánh Phật nơi mình và mang tâm nguyện Bồ tát vào đời để cùng con người dấn bước trên đuờng trở về; nhưng ngày nay, cũng vẫn có những con người mang hoài bảo lớn của tâm linh, không phải để phiêu lưu trong vọng tưởng êm ái nào đó, nhưng là để chứng thực tấm lòng của mình, của người và hoà nhập với nhau trong đường hướng đem đạo Phật vào trong cuộc đời, chia sẻ đến mọi con người với ước mong xoa dịu niềm đau nổi khổ..

Chung quanh Hương Thất, còn nhiều nền các tịnh thất dù đã bị suy hoại, tàn phá bởi con ngườithời gian, nhưng vẫn còn ghi chứng dấu vết các tịnh thất của các Ngài A Nan, Ca Diếp, Mục Kiền Liên... là những đại đệ tử của Phật. Nhìn cảnh vật quanh đây, chùa tháp đã suy sụp, khiến Đoàn người hành hương không một ai là không cảm thấy bùi ngùi, xúc động, xót xa cho sự vô thường diễn ra trước mắt, nhưng linh khí như vẫn còn dầy đặc bao phủ khu vực nầy. Dù thời tiết thay đổi bất thường, nhưng lòng ai nấy đều cảm nhận niềm an lạc vô biên tràn ngập. Đoàn đã ngồi thiền, tụng kinh và sau đó, đi kinh hành, triền nhiễu quanh khu vực Hương Thất của Đức Phật, để quá khứ không còn, mà chỉ là hiện tại, với tấm lòng chí thành. Trong tâm ai cũng cảm nhận được sự an tịnh, dù có sự nhộn nhịp đâu đây do số người quá động. Nước mắt cũng tuôn rơi, những giọt nước mắt của hạnh phúc, của niềm vui suớng, của pháp lạc, của hiện pháp lạc trú…

Sau khi đi nhiễu nơi Hương Thất xong, đoàn đi dọc theo những tháp, nền chùa chung quanh, dù đã bị suy sụp, hư hoại, để lễ bái và chụp hình lưu niệm những khoảng thời gian tâm linh thật đẹp. 

blankTiếp đó, rời khu vườn, đoàn người thăm một ngôi Chùa nhỏ (Buddhist Temple) nằm phía trước cổng, phía bên kia đuờng. Khi đã lễ lạy, cúng dường xong, Đoàn được hướng dẫn lên sân thượng để được nhìn thấy hai cái hồ nước mà sử ghi rằng một hồ là nơi đoạ lạc của Devadatta, còn một hồ của một nữ tín đồ ngoại đạo vu cáo, hại Đức Phật.

Tiếp đến thăm Tháp của Ngài Vô Não (Angulimala) là người đã tin cuồng tín vào tà giáo dạy cần phải giết nhiều người để lấy ngón tay hầu đạt đạo, nhưng khi gặp đức Phật và dù chủ tâm hại Ngài, nhưng không thành công và đã được Phật cảm hoá trở thành đệ tử. Còn Tháp của Truởng giả Cấp Cô Độc thì chỉ được nhìn từ xa, không tiếp cận được vì thời giờ eo hẹp, tranh thủ với bóng chiều gần kề, cần khởi hành sớm cho cuộc hành trình tiếp tục. Rời khỏi nơi đây, nhưng lòng mọi người như còn tiếc nuối vì thực ra cũng nên đến thăm và đảnh lễ Tháp của Ngài Cấp Cô Độc để tỏ lòng tri ân đối với Bậc Đại Thí Chủ của Phật giáo, có công hạnh lớn khi xây dựng trụ xứ để Đức Phật an ngụ và trao truyền giáo Pháp.

Đoạn đường vừa vượt qua, với những pháp hữu vi được nhìn thấy, tiếp cận như là thành quách, tháp miếu, chùa chiền v.v… biến đổi, hư hoại theo thời gian. Những cảnh đói nghèo, khổ sở của các người ăn xin tại mỗi nơi Thánh tích rất là nhiều, có người bò lê lết, có những người ốm yếu, bơ phờ, tật nguyền do cuộc sống đói kém, thiếu thốn… nhưng may mắn cho họ là hữu duyên gặp đuợc rất nhiều đoàn người hành hương từ khắp nơi trên thế giới, đến chiêm bái, ngồi thiền, tu tập các Pháp chuyển tâm tại các nơi Thánh địa này… do lòng từ muốn chia sẻ chút ít, đã có giúp đở phần nào cho họ- những người xin ăn và họ đã biết niệm Danh Hiệu Phật với nhiều ngôn ngữ khác nhau, dù với tâm địa như thế nào, nhưng khi mà Hồng Danh của Đức Phật một phen qua tai để nghe được, một lần đã được niệm đến Danh Hiệu Bậc Đại Giác từ đôi môi xưng tán, một hình ảnh trang nghiêm, giải thoát của Đức Phậtcon người được nhìn thấy với lòng kính trọng v.v… thì chắc chắn rằng, những ích lợi tâm linh rất lớn sẽ chuyển đổi những nghiệp lực, nghiệp quả xấu xa và đưa họ đến một hình tuớng đẹp, một đời sống an lành nào đó…

Những hoạt cảnh vừa nêu trên, cũng nói lên hình ảnh, cõi giớichúng ta đang sống với rất nhiều biến đổi, vô thường, vô ngã, không an như Kinh thường ví dụ “Ba cõi: Dục giới, Sắc giớiVô Sắc giới không an, giống như nhà lửa”. Lửa của nghiệp lực, của phiền não, của vô minh, của sinh già bệnh chết, khổ đau đã bao phen dằn vật lên thân phận con người, muôn loại.. Làm sao để có thể vượt thoát ra khỏi rừng rậm u minh nầy? Làm sao có thể chấm dứt khổ đau và sống trong An Lạc, Giải thoát, Tự Tại…

Nhiều tôn giáo đã cố tìm đáp án cho dòng sinh mệnh nầy, với những giáo lý, kinh điển, triết thuyết, siêu hình v.v…và trình bày với con người những con đuờng đi như với đức tin, với cầu nguyện, thần phục, làm lành lánh dữ theo thiên ý v.v.. để được cứu rỗi, được đưa về một cảnh giới hứa hẹn nào đó.

Đạo Phật đi nguợc lại trào lưu đó, đưa con người tiếp cận, sống với tâm, với tuệ giác của chính mình, vì Đức Phật nhìn thấy rằng biết bao nhiêu tín lý, bao nhiêu là triết thuyết v.v… đều đưa con người xa rời với mảnh đất của tâm, bám víu vào những huyễn ảo không phải thực của chính mình, vì đó cũng là giả danh giả hợp. Cho nên, Đạo Phật qua biết bao nhiêu pháp môn hành trì, tu học… đều dụng công đem đến hay đặt lại nền tảng cho cuộc hồi sinh các giá trị đích thực của con người- con người với những yếu tính như si tham sân, nhưng lại là nguồn gốc của Giác ngộ hay Giải thoát, cũng thành tựu, nở hoa từ các thành tố nầy, như “phiền não tức bồ đề”. 

Giá trị của cuộc tái sinh thành con người nhân bản, thánh thiện không phải là những danh từ hoa mỹ, hay triết lý suông, hình dung từ của Đức Phật, nhưng là bản chất, là sự sống, là chất Phật của chính mình, của mỗi giây phút, mỗi sát na, trên từng bước chân hiện sinh, do từ mỗi một sự chuyển hoá tâm… ví như hoa sen (padma) vươn lên từ bùn nhơ, uế nhiễm nhưng lại mang đầy đủ các bản chất như tánh không nhiễm nhơ, tánh làm thanh tịnh, trong sạch, cải hoá chung quanh, tánh mang hương sắc diệu hiền, cao thưọng, thanh thoát… nhưng tất cả các bản chất trên lại thể nhập lại thành một hoa sen.

Vẫn con đường xưa đó
Có hàng cây che bóng mát

Có gió vui chơi, mang cánh diều bay bỗng

Thôi xin trả lại màu thời gian ươm mộng

trả lại mắt môi gửi bến vô thường

trả lại mùi hương không mang hương vị

để dòng sông tánh giác mở lối con thuyền

chở bình minh dọc đời ảo mộng

con đường trở về, trăng mở hội như xưa

thuyền ơi, dừng lại trên bờ tâm nhỏ

chở hết vầng trăng buổi sớm mai

nghe trong hơi gió, cơn mưa pháp

chợt thấy đôi môi nở nụ cười…. 

 Minh Thanh

Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận, nhưng chỉ khi nào tâm trở về tâm, ta sẽ cảm nhận và sống thực chan hoà với vùng trời bao la, thanh thoát nầy.. Đó không phải là một huyền thoại, một biểu tượng vô hồn, nhưng là cả một tâm hồn bao dung cao cả, rực ngời của tâm đại từ bituệ giác như ánh sáng vô lượng, không gì so sánh, không thể nghỉ bàn, vi diệu, trải dài theo tánh tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.. Đức Phậtcon người, nhìn thấy sanh già bệnh chết, nhìn thấy nghiệp báo đeo dai dẳng trên thân phận con người, nhìn thấy vòng mắc xích ràng buộc con người trong các cảnh giới, sanh tử tử sanh v.v… Ngài đã lập nguyện lớn, tu hànhchứng quả Giác Ngộ Vô Thượng và Ngài đã đem tất cả những gì qua Giáo Pháp mầu nhiệm để giảng dạy, có thể giúp cho chúng sinh nếu tu theo, chuyển hoá tâm, sẽ đạt được Giác ngộ như Ngài. Sở dĩ nói Giáo Pháp của Đạo Phậtnhân bản đúng nghĩa, vì đến từ con người, vì con người, con người của đau khổ đã chuyển hoá tâm, đạt không tánh, chứng nhập Chân Như và là một Giáo Pháp Như Thật.

Là một hữu tình với tất cả những yếu tố cấu tạo nên con người: Bảy pháp trói tâm (thất tình), Sáu đường tham muốn (lục dục), lại bao gồm các nhân duyên như địa-thủy-hoả-phong-không-thức-thời-phương, phối hợp cùng năm uẩn như sắc- thọ- tưởng- hành- thức cộng với dòng nghiệp thức, chúng ta đã có một sinh mạng giả hợp để hiện hữu, để sinh tồn. Mặc dù không có thể biết đuợc nơi nào chôn dấu niềm đau, nổi khổ, dù là dục giới, sắc giới hay vô sắc giới, nhưng chúng ta biết mình có niềm đau nổi khổ, đến từ vọng niệm, vô minh, tham chấp và từ những nhân dù tốt hay xấu, dù thiện hay ác, sinh ra những quả và từ quả lại trở thành nhân, để rồi tạo ra bao nhiêu hệ lụy, phiền não, đưa đến đau khổ hay hạnh phúctái sinh ở bất cứ nơi nào, sẽ có nhân quả tương ứng. ”Nhân địa dụng công, quả địa liền theo như hình với bóng”, trừ khi bước chân của tâm dừng lại.

Bàng bạc trong sự chấp trước, lấm tấm bụi trần, từng hạt sỏi, hạt cát, từng cây cỏ, từng giọt nước, sương rơi, dòng suối chảy hiền hoà, biển cả bao la, núi non trùng điệp, trời đất trong thế giới hũu tận v.v.. vẫn chứa đựng trong chiều sâu, có trùng trùng nỗi đau xót, bất an, phiền muộn và tâm như vậy, thì cảnh cũng tùy thuộc, sinh hoá như vậy.

Chúng ta có đôi mắt thịt, mắt trần gian để nhìn sự vật, trước mặt, chung quanh, nhưng chỉ giới hạn trong một khoảng cách nào đó. Nhưng, chúng ta cũng có con mắt pháp- tuệ nhãn- nhìn rõ nhân duyên cấu tạo của các pháp, tường tận, soi sáng con đường đi, để thoát ra khỏi tham chấp, đi đúng theo chân lý, vì con mắt pháp rộng rãi, sáng suốt được đến từ sự tu tập, quán chiếu của nội tâm, thấy được chân tánh, chân tướng.

Trong Kinh Giáo Giới Channa, đọc đoạn Tôn giả Sàriputta nói lời giáo giới: “Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn cần được tác ý: Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước thì không dao động. Không dao động thì khinh an. Có khinh an thì không hy cầu; không hy cầu thì không khứ lai; không khứ lai thì không tử sinh; không tử sinh thì không có đời này, đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là đoạn tận khổ đau”. 

May mắn cho chúng ta, khi có lòng thâm tín đối với Đức Phật và với giáo Pháp của Ngài mà chúng ta học và tu học được, làm tâm chính mình dụng công đi vào nguồn sung mãn pháp lạc, pháp hỷ, pháp an, pháp tự tại

Chúng ta đã đi qua từng chặng đường để trở về với Tánh giác, theo lộ trình của Bảy Phần Giác Ngộ (Bojjhanga) như đã từng phần trình bày, minh chứng… để bước đi trong sự An Lạc (Passadhi).

Theo định nghĩa Passadhi ( An) gồm toàn thể các tâm sở, có hai phần: thân và tâm. Thân an (kàya passadhi) như sự an tĩnh của thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và tâm an (citta passadhi) như sự an tĩnh của thức uẩn.

Tất cả những tâm sở từ lâu đã khuấy động, lôi kéo con người khi tâm bất an, tạo nên các sóng thần nghiệp báo, hứng chịu và trải qua bao nhiêu là con đường dù thiện hay ác, chồng chất thêm gánh năng nghiệp lực trên đôi vai giải dầu mưa nắng, gió sương. 

Giáo Pháp của Đức Phật như kéo lại cái tâm buông lung, chao đảo, đem tâm trở về thân. Tâm không an trụ, cuộc đời sẽ mãi triền miên trong đau khổ, vì lấy cảnh làm thật, lấy vô thường làm hiện hữu, lấy vọng niệm làm pháp chấp. Chỉ có sự chuyển y qua sự tu tập, quán chiếu, kéo dạt qua đám mây mờ che phủ ánh trăng để trăng soi tỏ, trăng chiếu sáng rạng ngời, trăng mở không gian rộng thênh thang trên bầu trời tánh giác. Đèn tuệ là đây, ánh sáng quang minh là đây, được vực dậy từ trong những phiền não, nhận chân, chuyển hoá toàn vẹn tâm thức được cấu tạo bởi dục vọng, tham ái, chấp thủ

Đạo Phật đưa con người trở về với chính mình, khơi sáng tánh giác tự tâm, để trưởng thành, để nhận chân được cuộc đời, buông rơi gánh nặng đã đeo trên thân qua biết bao nhiêu là cuộc bễ dâu, bao nhiêu là vòng lẫn quẩn tử sinh sinh tử. Từ tánh giác sẽ là ngọn đuốc giải hoặc bóng tối, gở rối những kiết sử (sợi dây trói buộc, xui khiến)- là những nhận thức sai lầm về thực tại, làm khuấy động thân và tâm trong vọng niệm và loại trừ những chấp trước như những nhận thức sai lầm về thân (thân kiến sử), nhận thức thiên lệch về một bên (biên kiến sử), nhận thức mê mờ, sai lạc (tà kiến sử), chấp chặt những gì mình cho là đúng (kiến thủ sử), sai lầm về giới như giới nào là đúng, là sai (giới thủ sử) v.v… và nhận thức rõ đúng bản chất của mọi hiện hữu đều bị ràng buộc lẫn nhau để thành hình, có mặt do bốn duyên giao kết như: nhân duyên, sở duyên, tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên

Rõ đuờng đi, hiểu được chất tố của pháp dược đã được Đức Phật- một vị Lương Y đầy từ bi hỷ xảĐại giác, chúng ta sẽ không còn nô lệ, dù nô lệ cho bất cứ những gì đã đè nặng nội tâm, trên thân phận con người, dù đó thần quyền hay đấng nầy đấng nọ. Bởi vì tất cả mọi cảnh giới như trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh hay trờ thành các Bậc Thánh nhân v.v.. đều được tạo thành do con người qua sự chiêu cảm của nghiệp lực hay do sự dụng công tu hành.

Nhìn xuyên suốt lại những chặng đường đã qua, từ lúc khởi hành, nay đến được chiêm bái nơi Tịnh xá Kỳ Viên, những hình ảnh của pháp như trải dài theo bước chân đi, cũng như bước đi dò dẫm vào cuộc đời qua bao nhiêu biến thiên của đời sống, của xã hội. Chúng ta đã trang bị cho mình nguồn mạch tâm linh của Phật giáo để làm thăng hoa cuộc sống, hoá giải mọi biến động của nội tâm, tự tại trong những hành visuy tưởng

Giữa cuộc sống hiện tại, hạnh phúc cho chúng ta là có đầy đủ mọi phương tiện như Kinh sách, Luân giải, truyền thanh, truyền hình, Internet, các trang nhà Phật giáo, kể thật là phong phú, vô biên.. để chúng ta tiếp cận, học hỏi, tạo tư lương tâm linh, tu học và từ đó, có thể dấn thân vào cuộc hành trình trở về tâm linh. Các pháp tu mà Chư Phật, chư Tổ v.v… đã phương tiện trao truyền lại, đưa con người đến Nhất ThừaPhật thừa, là thành Bậc Tỉnh Thức, có rất nhiều, rất nhiều.

Chúng ta có Thiền với Thiền Giáo đồng hành, hoặc “bất dụng văn tự” hay các phương pháp Thiền như Thiền Minh Sát (Vipassana) v.v… thấy “đương thể tức không”, nhập được Tánh không, đi vào Chân tánh.

Pháp môn Niệm Phật với Tín Hạnh Nguyện để tạo thành Cảnh giới Cực Lạc ngay trong đời hiện tại, Cực Lạc Tự tâm, qua sự dung thông, viên định của niệm Phật Tam Muội, biết được đường về.

Mật giáo với cuộc “du hí thần thông” qua Tam Mật Tuơng Ưng, thể nhập vào Như Lai Đại Nhật hay Bổn Tôn, tức Phật Tâm và mọi diệu dụng đều “tùy sở đắc vật hay tùy tâm thị hiện”.

Đâu là sự sai biệt giữa các Pháp môn của Đức Phật hay tất cả chỉ là phương tiện như “tám vạn bốn ngàn pháp môn” khác, đưa người đến bờ Giác. Quan trọng là chúng ta có thực tu hay không, và các “phương tiện thiện xảo” đó được ứng dụng tùy theo “khế cơ khế lý” của chúng ta. Không có một công thức cố định nào cho các pháp môn, không có một phương thuốc duy nhất nào cho các bệnh nhân, nhất là tâm bệnh. Nếu có một công thức giải thoát chung cho tất cả mọi người để thành Phật, thành Bồ Tát… thì Đức Phật không cần phải hành hoạt trên bốn chín năm trời để giáo hoá chúng sanh và các pháp tu của Đạo Phật không bao la, rộng lớn, uyên thâm như hiện nay để tùy căn cơ chúng sinhthích ứng

Phật thường dạy rằng: ”Không có một pháp nhất định gọi là pháp, tức là pháp để tu hành = Vô hữu định pháp danh A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Chỉ biết rằng, nếu chúng ta thực sự tìm đến Đạo Phật để thực tập tu học, thiền, niệm Phật, hay nhập đàn trì chơn ngôn, nếu tinh tấn, miên mật, tâm không thoái chuyển, quả vị Giải Thoát dù chưa đạt đưọc trong hiện đời, nhưng trong đời sống đã có những biến chuyển tốt đẹp

Như trong từng lời nói tâm tình nơi đây, dù là dùng văn tự trần tục, muợn cảnh nói tâm, nói đến chiều sâu của Chân Như và có sự giới hạn của văn tự sống, vì người viết chỉ là một người đang tu tập, sơ cơ, nhưng có phải nơi những dòng chữ nầy có hương thơm của Thiền, có sự hành hoạt diệu dụng của tâm; có cảnh giới Cực Lạc dù không có Trì niệm Danh hiệu Phật, hay là có sự dung thông, gia trì của Bản Tánh Đại Nhật trong Mật giáo? 

Đã biết bao nhiêu lần, chúng ta cố đem tâm ra để trình bày cho Tổ để được an tâm, vì tâm hồn quá đau khổ trong nghiệp lực đẩy đưa và chúng ta muốn vượt thoát qua. Dù nhìn lại mình, nhìn lại Tâm để đưa ra, nhưng khi quán chiếu lại, không thấy tâm ở đâu, băn khoăn, rối rắm, sợ hãi… nhưng rồi vẫn theo lối cũ đường xưa, ôm lại cái tâm vọng niệm, thấy nhân, thấy ngã, thấy chúng sinh, thấy thọ giả, bỏ rơi cuộc trùng phùng kỳ diệu với chân tâm.

Tất cả pháp môn của Đức Phật không ngoài “Giới Định Tuệ” và “Tâm Đại Từ Bi”, đây là pháp môn dung thông tất cả mọi triết thuyết, mọi triết lý, tư tuởng, tôn giáo v.v.. trên thế giới, vì nếu không thấm nhuần, thực tu theo pháp môn nầy hay thiếu “Giới Định Tuệ và Tâm Đại Từ Bi” thì rất là nguy hiểm cho mình, cho môi trường chung quanh, cho xã hội, cho nhân loại, vì tất cả mọi đối tác, hành động sẽ đều mang dáng dấp của si tham sân, ái ngã và chấp trước.

Như chúng ta được nghe nói: ”Nếu bộ áo cà sao có thể làm cho con người giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử, thì chúng ta cứ việc phủ cho đứa bé khi mới chào đời”, nhưng không bao giờ được, vì không một ai có thể giải thoát cho ai. Vì thế, Đạo Phật chú trọng sự tu hay sự dụng công tu tập. Chuyển hoá tâm, tức chuyển hoá toàn bộ tâm thức, tâm sẽ an định. Tất cả mọi suy tưởng, mọi hành trạng, mọi dụng công, mọi đối tác v.v… nếu đến từ tâm an, thì diệu dụng sẽ vô cùng, vì chúng ta đã tạo được Công Đức chân thật là nhập vào Pháp Thân, do dụng công, do tâm bình đẳng và do miên mật trong tánh giác như lời của Ngài Huệ Năng dạy.

Bạn ạ! Chúng ta hãy dành ra một phút giây nào đó của một ngày, để nhìn lên bầu trời, nhìn thiên nhiên, vạn vật có mặt chung quanh, vì tất cả mọi vật mà ta có thể nhìn thấy bên ngoài- gần xa, hoặc suy tư đến hoặc giả khi quán chiếu lại mình v.v.. đều đồng thời hiện hữu, kỳ diệu. Vạn hữu vừa có mặt, vừa biến đổi, vừa tương duyên lẫn nhau, vô thường. Không gian, thời gian, pháp giới có lúc là vô cùng tận, nhưng qui lại chỉ là một niệm, vô niệm

Vô tình, bắt gặp một hạt sương rơi còn bám trên một nhánh dây, lung linh trước gió. Trong giọt sương ẩn chứa biết bao nhiêu là bài pháp, tùy người cảm nhận. Pháp của tương duyên tương sanh, pháp của không thời gian, pháp cùa sự im lặng trong im lặng, khi tâm trở về tâm.

Tôi đã bắt gặp câu kệ nầy từ lâu rồi, nhưng mỗi lần chiêm nghiệm về cuộc đời qua bao nổi thăng trầm, vinh nhục v.v. lại càng cảm thấy bức xúc và thấu hiểu được chiều sâu của lý vô thường.

Tuy nhiên, vì hiện hữu là một con người, tôi phải sống và làm tất cả những gì mà con người cần làm, một cách hợp tình hợp lý, chính danh, để cho chính mình có cuộc sống ý nghĩa và để lại chút gì đó, có hơi hướm của hương trầm cho cuộc đời. Vẫn biết rằng, tất cả mọi pháp đều sanh diệt, biến hoại…và thân mạng con ngườivô giá; nhưng để có được một chút tư lương mà tôi hằng ôm ấp, nuôi dưỡng và sống với, có thể không quan trọng đối với bạn, nhưng với tôi lại là tấm lòng chân chất, dấn thân.

Tôi có gia đình và có những đứa con, nên phải sống một cách tốt đẹp, vì tôi, vì các con, vì cuộc đời, vì xã hội… để có món quà tốt đẹp lưu lại cho các con. Là người cha, là người Phật tử mang một ít hạt giống Phật mà mình nhận thức và với bao nhiêu năm ươm mầm, tưới tẩm… tôi hiểu được sự đau khổ của các con khi sống trong một gia đìnhcha mẹ bất hòa, xáo trộn, gây cấn. Hạnh phúc quá đơn giản như khi tình thương được chan hoà, chia sẻ trong gia đình, dù gì với bất cứ lý do gì. Ánh mắt của hạnh phúc, của yêu thương… như ngọn lửa đốt cháy tất cả mọi dị biệt, thành kiến, chia rẻ trong gia đình, xã hội, vì biết rằng: Sự đau khổ của người cũng chính là sự xót xa, bầm dập của mình.

Đạo Phật đã cho tôi quá nhiều lợi lạc, an vui… qua sự thực hành giáo Pháp của Ngài và qua sự sống lục hoà với chính mình, với gia đình và với môi trường chung quanh. Từ đó, tôi hiểu rằng lý do vì sao mà Đạo Phật ngày càng phát triển ở mọi nơi, từ quốc gia này đến quốc gia khác, mọi chân trời; bởi vì Đạo Phật mang tinh thần nhân bản, phóng khoáng, hoà bình và thực dụng. Tất cả chất liệu sống nầy đến từ một con người bình thường, nhưng là bậc Đại Tỉnh Thức vượt lên trên tất cả những uế nhiễm, vô minh. Như Kinh Pháp Hoa nói: ”Như Lai toà giả, nhất thiết pháp không thị”. Sự bình dị, chân chất, tự tại của Đức Phật không phải vì vũ khí hay biểu dương sức mạnh nào, nhưng lại ảnh hưởng vô cùng đến muôn loài, nên đem lòng quí trọng, không phải chỉ từ thưở trước, mà còn lan rộng đến hôm nay và mãi mãi sau nầy. 

Tôi hiểu là làm sao mà tôi trở thành Phật tử, là đệ tử của Đấng Giác Ngộ, vì Ngài đã chỉ cho tôi cách sống Hạnh Phúc thực sự, cách trở về lại chính mình, cách để trở thành người thanh thoát, sống trong tâm Phật và trong tiến trình thành người tỉnh thức toàn vẹn. Mở không gian của tâm rộng lớn, để mang tâm nguyện bao la..

Tâm an thì tư tưởng ổn định, tâm sẽ sáng suốt, bình thản trước các pháp để có cái nhìn chân thật, là nền tảng vững chắc để kiến thiết và chia sẻ nổi đau của xã hội, của con người, dù ở bất cứ đâu… Nghĩ đến thân mạng con người khó được, nên rất quí trọng và ráng dung nó để tu đức cho có công, để tánh đức ngày càng sáng, hiện rõ. 

Khi quán sát thấy năm uẩn đều không, tự thấy mình và muôn loài đều cùng thể tánh, tánh Phật và từ đó, nhận ra rằng vạn hữu đều mang ân nặng lẫn nhau do các pháp hiện hữu tương duyên tương sinh, không tồn tại biệt lập...

Những tin tức về những biến động của đất nước Tây Tạng đã làm tâm hồn tôi đau xót, đã có những người chết, có tiếng nói kêu gọi Hoà bình, tôn trọng thân phận con người. Đất nước Tây Tạng nhỏ bé, dân số ít, không tài nguyên thiên nhiên như nhiên liệu v.v… Người tu nhiều hơn là người thường, tôn giáođời sống thường tục dung hoà và có nền văn hoá tâm linh cao vời vợi, đó là giá trị cao đẹp, ích lợi cho con người hiện nay trong cơn bối rối, dầu sôi lửa bỏng của xã hội, trái đất… Tôi đã chắp đôi tay lại, dâng lên Đức Phật lời cầu nguyện cho những giá trị con người mãi luôn tồn tại.

chiếc áo cà sa loang máu
đôi vai trần gánh nặng lòng từ

trước bão tố hận thù trút xuống

trước sắc thép vung lên

này người ơi ! dã tâm sẽ không tồn tại

bạo lực sao chịu nổi trước tâm người

có đổ xuống muôn ngàn vũ khí

có hung hăng dập nát thân nầy

có nhiều người ngã gục

có máu tràn ngập phố phường

nhưng chúng tôi không oán thù

chúng tôi không chống trả

nhưng hỏi rằng, làm sao người trả lời với luơng tâm

làm sao trả lời với loài người

chúng tôi có quyền sống

với giáo pháp từ bi đơm hoa nở tình người 

với trí tuệ rạng ngời dắt người qua nẻo tối

chúng tacon người

nào phải là dã thú

nào phải là kẻ thù

nào phải là người xa lạ

xin mở vòng tay để là biển rộng

xin mở tâm hồn để vũ trụ bao la

Trăm năm rồi khép lại

một cuộc đời rồi qua

tôi xin chắp tay lại

xin tặng người những búp sen non….

 Minh Thanh

Chúng ta cũng nhìn thấy bao thảm cảnh xảy ra trên thế giới, trong ngôi nhà bé nhỏ của hành tinh mà mọi loài đang sinh sống, vẫn còn bạo lực, hận thù tràn đầy và chúng ta phải làm sao? Tâm an đã cho chúng ta có sự sáng suốt, nhìn thấu rõ nguồn cơn của căn nhà lửa nầy và mong rằng ai nấy đều thức tĩnh. Hãy sống như đoá hoa sen thơm, ngoi lên từ bùn nhơ, vươn khỏi phiền não, uế trược, và để ngày ra đi, chúng ta vẫn còn lưu lại những hạt sen để kết thành những xâu chuổi tâm linh, dù nhỏ nhoi, khiêm tốn, nhưng mang lại ích lợi cho mọi người muốn dụng công tu học, muốn chuyển hoá tâm minh, để tâm trở về thân, trở về lại tâm sáng suốt mầu nhiệm và làm lợi lạc cho mình, cho người. Tôi không biết rằng: Đây có phải là Pháp Bố Thí vi diệu không?

Khi muôn loài đau khổ
Tâm bồ tát mở lòng

Có thể là áo ấm che sương gió

ánh mặt trời tan bóng màn đêm

áng mây xanh toả dịu tình thương

Là vòng tay ấm áp bao dung

blankLà chiếc lá vàng rơi phủ lên oán giận

Là giọt mưa nhẹ bay dập tắt lửa hận thù

Là cánh trắng bồ câu mở rộng

để nói cho mọi người rõ, lời chân tình

trái đất nầy cần có tình thương

trẻ em cần học, người già cần săn sóc

mọi người đều được đủ ăn, đủ mặc

tiếng ê a trẻ học thay cho bom đạn

hồi chuông khuya bừng sáng tâm người

đời vẫn trôi qua, tham tàn còn đó

bao con người mang nhu hoà, nhẫn nhục vẫn bước đi

loài người, vì đồng loại, mong nước mắt ngừng rơi….

 Minh Thanh

Chúng ta đi nhặt dấu thời gian của quá khứ để làm hiện tại, để chụp một quảng thời gian nào đó đưa vào ký ức, rất đẹp, rất nên thơ. Nhưng thời gian chỉ là ảo hoá, hư không sẽ có ngày tận, nhưng bước chân của chúng ta sẽ ra sao, có làm nên những thần thông đơn giản là sự An Lạc trong từng sát na một hay không? Tôi được Thầy Tổ dạy rằng, đừng tìm đâu xa cái Hạnh Phúc Chân Thực, đừng lao vào những ảo vọng mông lung… chỉ những bước chân ngay bây giờ, nơi đất với hơi thở bình thường, Đức Phật đã có ở trước mặt, ở đây và ở trong tâm chúng ta.

Bạn nghĩ sao, vì đó là điều mà tôi kính xin được chia sẻ cùng với mọi người, trong tâm tình của người con Phật, để chúng ta cùng tìm đáp án cho vấn nạn của con người.

Viết xong ngày sinh nhật 21.04.2008

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15626)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23105)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14110)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13024)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55180)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9223)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14492)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14214)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14240)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13925)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36392)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19942)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18217)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19275)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19201)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20369)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17703)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31609)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15985)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15079)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14747)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46263)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 36003)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21087)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21678)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23466)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34483)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19545)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18995)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22994)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20235)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19905)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34606)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54596)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37833)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17950)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63767)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17444)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49761)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27549)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20350)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23097)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18938)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16370)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17990)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21005)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17414)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14511)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16425)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16068)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17545)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22056)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15162)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13536)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14396)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15437)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15054)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12751)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13411)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27457)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12575)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13256)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14521)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16282)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12445)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15473)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12897)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12235)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13244)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21730)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11309)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22802)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15145)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14979)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46252)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14636)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12677)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18954)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14795)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43934)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47571)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13694)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14636)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29069)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33376)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15438)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31287)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12561)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40487)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46718)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant