Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm hiểu về hiện tượng Lâm Tỳ Ni

04 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12353)
Tìm hiểu về hiện tượng Lâm Tỳ Ni

TÌM HIỂU VỀ HIỆN TƯỢNG LÂM TỲ NI 
Thích Nguyên Hiền 

Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm. Trải qua hơn 2500 năm phát triển của Phật giáo, lịch sử và huyền thoại cứ quyện chặt và bao trùm bầu không khí Kapilavastu. Sự ra đời của đấng Giáo chủ có giao hòa một ít sương mờ của bình minh tư tưởng Vệ-đà, một ít cây lá của nền trời nghệ thuật Trung Hoa, cùng với hương hoa bất tuyệt của niềm tin tín đồ, đệ tử đối với bậc Vô thượng Pháp vương.

Hình ảnh Thái tử Tất-đạt-đa, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, kiễng gót trên bảy đóa hoa sen; hình ảnh một Hoàng hậu Ma-da đưa tay nâng đóa Vô-ưu giữa sự vi nhiễu của chư thiên Phạm Đế; hình ảnh một vị tiên A-tư-đà phủ phục chiêm ngưỡng 32 tướng trượng phu…, tất cả đã tạo thành một họa phẩm vĩ đại nhất vẽ nên một chân lý, một huyền thoại uyên nguyên về cả Hình nhi thượng lẫn Hình nhi hạ trong Nhân sinh quan và Vũ trụ quan Phật giáo.

Từ thuở nhỏ theo chân mẹ đến chùa, khung cảnh vườn Lâm-tỳ-ni nhân tạo đã làm cho bản thân người viết bài này vô cùng cảm kích, và đó cũng là một trong những nhân duyên lớn giúp bản thân xuất gia đầu Phật sau này. Từ đó đến nay đã bao mùa Phật đản, bao lần được chiêm ngưỡng cảnh trí huyền thoại của Lâm-tỳ-ni qua những bức họa của các họa sĩ lẫn những phối cảnh của các nghệ nhân trong các tự viện, thế mà mãi đến nay, hiện tượng Lâm-tỳ-ni vẫn là một khái niệm mơ hồ trong lòng kẻ hậu học này. Tại sao lại bước đi trên bảy đóa sen? Tại sao nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn"? Có đúng là Thái tử sanh ra từ hông bên phải của Hoàng hậu Ma-da ? v.v… Những ẩn dụ hay sự thật hiển bày? Truyền thuyết ấy là của Nam Tạng hay Bắc Tạng? Ấn Độ hay Trung Hoa? Luận thuyết ấy là từ Nguyên thủy hay sau này? Của Bộ phái hay Phát triển? Tất cả những câu hỏi ấy luôn thôi thúc bản thân tìm hiểu.

Thế rồi, càng lạc vào rừng điển tịch người viết càng hoang mang, càng thấy hiện tượng Lâm-tỳ-ni là một bức màn không thể vén lên hết được. Thôi thì, xin góp nhặt những tài liệu đây đó, một vài ghi nhận chủ quan, tìm hiểu về hiện tượng ra đời của Đức Phật 2500 năm trước.

1. LÂM TỲ NISỰ THẬT LỊCH SỬ

blankNói đến lịch sử, chúng ta chỉ còn biết khảo sát một cách khoa học dựa trên những di chỉ còn lại đến ngày nay. Trải qua hơn 2500 năm, chắc chắn mọi sự đã thay đổi hoàn toàn. Vì thế, dẫu công tâm đến thế nào, người ta cũng dễ dàng rơi vào sự ức đoán hoặc phô diễn theo nhãn quan của mình, không thể tránh khỏi sự nhầm lẫn, đôi lúc làm sai sự thật.

Lâm-tỳ-ni (Phạn, Pàli: Lumbini - nay là Rumindai), được người Trung Hoa dịch là Hoa quả đẳng thắng diệu sự cụ túc, Lạc thắng viên quang giải thoát xứ, Khả ái, Hoa hương, Đoạn, Diệt, Diêm…, là khu vườn hoa nằm giữa Câu-lợi (Kol啕a) và Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) thuộc Trung Ấn độ, vốn do Hoàng hậu Lâm-tỳ-ni của vua Thiện Giác (Phạn: Suprabudha) thiết lập. Khu vườn này có một thời gian lâu dài bị hoang phế. Mãi đến năm 1896, các nhà khảo cổ khai quật và phát hiện trụ đá của vua A-dục (Asoka) mới biết đây là Thánh địa, nơi đản sanh Đức Thích Tôn.

Theo THE HISTORICAL BUDHA của H.W. Schumann, một học giả người Đức, thạch trụ do vua A-dục dựng vào năm 245 trước CN, cao 6, 5 m. trên thạch trụ có lời ghi:

"Hai mươi lăm năm sau khi lên ngôi, quốc vương Devànampiya Piyadasi (Thiên Ái Thiện Kiến, tức A-dục) ngự đến đây chiêm bái, vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bậc hiền nhân của bộ tộc Thích-ca, đã đản sanh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc 1 tượng bằng đá (?) và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở làng Lumbini và giảm thuế hoa lợi từ 젴heo lệ thường xuống 1/8". (ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ , bản dịch của Trần Phương Lan, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997, trang 38 - 39.)

Đây là một phát hiện di vật sớm nhất còn lại đến ngày nay, và đoạn văn khắc trên trụ đá này có thể được xem là "bản khai sanh" của Thái tử Tất-đạt-đa. Còn một phiến đá có lẽ xuất hiện vào khoảng thế kỷ II TL, được tìm ra ở Lumbini và được lưu trữ tại một ngôi chùa nhỏ địa phương. Phiến đá cho thấy Hoàng hậu Ma-da sanh Hoàng tử trong lúc đang đứng vịn cành cây Sàla (tên khoa học là Shorea Robusta). Các học giả Tây phương hiện đại cũng khảo cứu kỹ lưỡng khu vườn nổi tiếng này. Theo CUNINGHAM’S ANCIENT GEOGRAPHY OF INDIA (S.N. Majundar), di tích vườn Lâm-tỳ-ni hiện nay còn một khu đất có chiều dài khoảng 30m, chiều rộng khoảng 20m, có ao tắm hình vuông và ngôi nhà bằng gạch, đây là nhà thờ Lỗ-mục-mễ-điệt (?), vách bên trong chánh điện có khắc tượng phu nhân Ma-da bằng đá, được suy đoántác phẩm vào thời đại vương triều Cấp-đa (Guppta) hoặc sau đó.

Về Hoàng hậu Màyà và dòng dõi của bà cũng đã được các nhà khảo cứu truy nguyên kỹ lưỡng, tưởng không cần phải kê ra dài dòng ở đây. Việc làm của các nhà khảo cứu trên tinh thần khoa học là đáng trân trọng. Tuy nhiên, do không được hun đúc trong tinh thần truyền thống và do sự khách quan quá mức cần thiết, cách nhận định của các nhà khảo cổ đôi lúc cũng đi quá xa, lệch lạc đối với kinh văn và suy luận thực tế. Chẳng hạn H. W. Schumann, trong phần khảo sát "Nguồn gốc Thái tử Sìddhattha và sự đản sanh của Ngài", có đoạn viết:

" … Hoàng hậu Màyà đã 40 tuổi, ngay trước thời kỳ lâm sản đã lên đường trở về quê song thân ở Devadaha để sanh con và nhờ mẫu thân Yasodharà bảo dưỡng. Cuộc hành trình bằng xe ngựa hay xe bò cọc cạch lắc lư trên những con đường đất bụi nóng bức khiến cho việc lâm sản xảy ra sớm trước khi về đến Devadaha. Gần làng Lumbini giữa trời không có nhà cửa che chở, chỉ có được tàng cây Sa-la và cũng không có thầy thuốc nào lo việc hộ sản, Hoàng tử ấu nhi Sìddhattha sanh ra đời vào khảng tháng 5, năm 563 trước CN." … (ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ , bản dịch của Trần Phương Lan, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997, trang 38.)

Tư liệu do H. W. Schumann khảo cứu quả không có gì khác với kinh văn là mấy. Song với cách trình bày chủ quan như "… xe ngựa hay xe bò cọc cạch lắc lư trên những con đường đất bụi nóng bức khiến cho việc lâm sản xảy ra sớm…", hay "không có nhà cửa che chở", "cũng không có thầy thuốc lo việc hộ sản" … khiến người đọc có cảm giác Thái tử bị sanh ra trong một hoàn cảnh bất đắc dĩ, hoàn toàn không hợp lý với một vị Vương tử của một vương triều đang thịnh trị.

Dẫu sao, việc Thái tử Tất-đạt-đa do Hoàng hậu Ma-da đản sanh dưới tàng cây Vô-ưu tại vườn Lâm-tỳ-ni là một sự thật lịch sử đã được xác nhận. Còn những chi tiết quan trọng khác nói trong kinh văn thì không thể khảo chứng. Đối với sự ra đời của một vĩ nhân, thường thường người ta hay xây dựng thêm những yếu tố cần thiết để tạo sự khác biệt với người thường, đồng thời cũng phù hợp với quan niệm của người Đông phương. Có những con vật thiêng như rồng, kỳ lân…, người thường chẳng bao giờ thấy, nhưng người ta vẫn tin nó một cách tuyệt đối mà chẳng hề nghi vấn. Đây là điểm mà người nghiên cứu cần phải bước qua lịch sử để vói đến một giá trị khác khi tìm hiểu huyền học Đông phương. Nếu không như thế, người viết sử chỉ là những anh hề trên sân khấu lịch sử mà thôi.

2. Những dị đồng trong các điển tịch viết về hiện tượng Lâm-tỳ-ni 

Để có một cái nhìn khái quát về toàn bộ hiện tượng Lâm-tỳ-ni, thiết tưởng cần phải đọc nhiều điển tịch của các tông phái Phật giáo trong nhiều thời kỳ mới có thể có một cái nhìn đúng đắn được. Bản thân người viết bài này không có khả năng đọc các kinh điển Pàli, chỉ biết dựa trên những bản dịch Nikàya của HT. Minh Châu (Hầu hết các kinh do HT. Minh Châu dịch đều dùng bản Pàli Text Society, London, do Hội Kinh Tạng Pàli, Luân Đôn xuất bản) để tìm hiểu Nam Tạng. Còn Bắc Tạng, chúng tôi dùng bản Hán dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Ngoài ra chúng tôi còn khảo cứu thêm ở một số bản Việt dịch các tác phẩm của các học giả Anh, Đức, Nhật, Trung Quốc.

Thật là vô cùng khó khăn cho người tìm hiểu khi lịch sử Đức Phật được các bộ phái qua các thời đại trình bày hoàn toàn không giống nhau, nhất là về niên đại và truyền thuyết. Tuy nhiên, về ý nghĩa và nội dung, hiện tượng Lâm-tỳ-ni lại hoàn toàn xuyên suốt từ Nam Tạng đến Bắc Tạng. Đó là điểm cực kỳ quan trọng giúp người viết có đủ niềm tin để tìm hiểu một cách thành kính.

Về sự khác nhau giữa các điển tịch, chúng ta dễ dàng đả thông khi hiểu được tính phức hợp trong sự hình thành các kinh điển. Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách mà không chú trọng lắm đến Phật truyện, các điển tịch cổ đã không có tính tổng hợp khi thuyết minh về cuộc đời của Ngài. Khi các đệ tử thân cận của Phật cũng lần lượt qua đời, do niềm luyến tiếc đấng Giáo chủ mà các môn đệ về sau muốn hình dung lại cuộc đời của Phật, từ đó Phật truyện bằng văn học ra đời. Điều đặc biệt là không những chỉ hình dung hình ảnh của Phật đương thời mà còn truy nguyên đến nhiều kiếp tiền thân của Ngài nữa, đó là Bản Sanh Đàm của Nam truyền hoặc các truyện Bản Sanh, Bản Sự, Vị Tằng Hữu trong Bắc Tạng. Các truyền thuyết về sự ra đời của bảy Đức Phật quá khứ cũng được trình bày một cách hoàn bị, đặc biệt là giữa các vị Phật lại rất giống nhau. Chính vì thế, có thể khi chúng tôi đang trích dẫn hình ảnh của Đức Phật Tỳ-bà-thi thì cũng như đang nói về Phật Thích-ca.

Các bản Hán dịch viết về Phật truyện thì nhiều vô kể, như TU HÀNH BẢN KHỞI KINH, THÁI TỬ THỤY ỨNG BẢN KHỞI KINH, QUÁ KHỨ HIỆN TẠI NHÂN DUYÊN KINH, PHẬT BẢN HẠNH TẬP KINH, PHẬT SỞ HÀNH TÁN, THÍCH-CA PHỔ, v.v… Tất cả những Phật truyện trong các kinh luận kể trên, chúng ta dễ dàng thấy có hai xu hướng rõ rệt: Một xu hướng tổng kết những sự kiện để tạo nên một Phật truyện chân xác của Phật giáo Nguyên thủy, xu hướng thứ hai là căn cứ trên huyền học để tạo thành Bồ-tát Luận của A-tỳ-đạt-ma trong Phật giáo Phát triển. Các kinh điển Nikàya và Àgama trình bày hình ảnh Đức Phật như một nhân vật lịch sử và đầy tính người. Kinh điển Phát triển thì thần thánh hóa, lý tưởng hóa hình ảnh của Đức Phật. Tóm lại, Nguyên thủyThượng tọa bộ là nói về Ứng thân, còn Đại chúng bộ thì nói về Pháp thân, tức Đức Phật đã thành Phật từ lâu xa, những gì xảy ra ở cõi Ta-bà chỉ là thị hiện. Dưới đây chúng tôi chỉ xin giới hạn Phật truyện về hiện tượng Lâm-tỳ-ni mà thôi.

Theo KINH ĐẠI BẢN, Bồ-tát ở trong thai mẹ 10 tháng trời mới sanh ra. Mẹ Bồ-tát đứng mà sanh. Khi sanh ra, chư thiên đỡ Ngài trước, sau mới đến loài người, thân Bồ-tát không đụng đến đất, có bốn thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ, Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt hoặc máu mủ nào. Có hai dòng nước từ hư không hiện ra, một lạnh một nóng tắm rửa sạch sẽ cho Bồ-tát và cho bà mẹ. Ngài đứng vững thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương rồi thốt lời lớn như con Ngưu vương: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Pháp nhĩ là như vậy. (TRƯỜNG BỘ KINH 1, bản dịch của HT. Minh Châu, trang 451, 452, 453).

Đoạn văn trên chúng tôi tóm tắt từ những đoạn dài dòng trong KINH ĐẠI BẢN, đoạn nào cũng có câu: "Pháp nhĩ là như vậy". Đã là "Pháp nhĩ" thì xin miễn bàn ! Điều đáng ghi nhận trong đoạn kinh trên là không nói đến chuyện Thái tử sanh ra từ hông bên phải. "Này các Tỳ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy". (Sđd - trang 451).

Các kinh bản Hán dịch như TU HÀNH BẢN KHỞI, PHƯƠNG QUẢNG ĐẠI TRANG NGHIÊM, PHẬT BẢN HẠNH TẬP, TRƯỜNG A-HÀM v.v… đều nói Thái tử "tùng hữu hiếp sanh". Nói chung, Đại chúng bộ chủ trương : Tất cả Bồ-tát khi sanh đều từ hông bên phải của mẹ mà ra. (DỊ BỘ TÔNG LUÂN LUẬN, mục Đại Chúng Bộ). Đây là kết quả của những bậc thanh tịnh chán sự xuất thai theo sản đạo phổ thông của mọi người thường. Theo học giả Kimura Taiken, thuyết này là sự kết hợp ngẫu nhiên với thần thoại cổ(*). Trong Lê-câu Phệ-đà (Rig– Veda), Nhân-đà-la trỗ cạnh sườn của mẹ mà ra (ẤN ĐỘ TRIẾT HỌC TÔN GIÁO SỬ , trang 102). Thượng tọa bộ và kể cả Hữu bộ cũng không có một thuyết minh nào nói đến việc Bồ-tát từ hông phải mà ra. Về điểm này, theo thiển ý người viết, vì các kinh đều nói Hoàng hậu Ma-da đứng mà sanh, nên Đại chúng bộ cho rằng sanh ở bên hông phải (bên phải biểu hiện ý nghĩa thuận). Học giả H. W. Schumann nói "hình như sanh con lúc đứng là một phong tục thời ấy" (Sđd, trang 41), thực ra chúng ta chưa hề nghe một tài liệu nào nói như vậy.

Tóm lại, những kinh điển xưa không nói chuyện sanh ở hông phải, cho nên ta tạm thời xem việc này chỉ như là ý nghĩa tượng trưng mà thôi.

Chuyện đi "bảy bước trên hoa sen" là vấn đề thứ hai chúng ta cần khảo sát.

KINH ĐẠI BẢN viết : "Này các Tỳ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng về phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên …" (TRƯỜNG BỘ KINH, Sđd, trang 453).

KINH PHƯƠNG QUẢNG ĐẠI TRANG NGHIÊM 3 (Đại Chánh 3, 553 thượng) ghi: "Lúc bấy giờ Bồ-tát khéo tự tư duy, tùy sức chánh niệm, không nhờ dắt đỡ, liền tự có thể bước đi bảy bước về phía Đông, dưới chân đều nở hoa sen (túc xứ giai sanh liên hoa)".

KINH PHỔ DIỆU 1 (Đại Chánh 3, 494 thượng) ghi: "Lúc bấy giờ Bồ-tát từ hông phải sanh ra, hốt nhiên thấy thân trụ trên hoa sen báu (hốt nhiên kiến thân trụ Bảo liên hoa), bước đi 7 bước trên đất mà diễn nói Phạm âm…".

KINH THÁI TỬ THỤY ỨNG BẢN KHỞI, thượng (Đại Chánh 3, trang 473), KINH TU HÀNH BẢN KHỞI, thượng (Đại Chánh 3, trang 462), KINH TRƯỜNG A-HÀM 1 (Đại Chánh 1, trang 4 – tương đương KINH ĐẠI BẢN Pàli)… đều không nói đến chi tiết Liên hoa. THÍCH CA PHỔ được xem như tác phẩm tổng hợp các thuyết trên, dĩ nhiên có nói "lúc bấy giờ dưới cây (Vô-ưu) cũng sanh 7 cọng hoa sen bằng 7 báu (thất bảo thất hành liên hoa), lớn như bánh xe, Bồ-tát liền đi 7 bước trên hoa sen ấy mà không cần ai nâng dắt" (Đại Chánh 50, trang 16).

Như vậy đã rõ, bước đi 7 bước là thuyết chung, còn bước trên hoa senchi tiết được thêm vào sau này. Về con số 7, không thấy các điển tịch giải thích, các Luận giả sau này cho rằng con số 7 là "con số của huyền học Đông phương". Theo tư tưởng Hoa Nghiêm, toàn thể vũ trụ không ngoài con số 7: trên, dưới, trong, ngoài, phải, trái và chính giữa, từ vật nhỏ như vi trần đến vật lớn như núi Tu-di, tất cả đều không ngoài con số 7, "lớn không ngoài mà nhỏ không trong" là thành ngữ ta thường gặp trong tư tưởng Hoa Nghiêm, có 7 Phật quá khứ, 7 Phật Dược Sư, 37 phẩm Trợ đạo cũng gồm 7 chi (Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần…); 7 lần 7 là 49; cách tính độ lớn của các pháp cũng dùng con số 7 để nhân lên (7 vi trần = 1 kim trần, 7 kim trần = 1 thủy trần…), toàn thể vũ trụ từ con số 7. Cách giải thích này có vẻ phù hợp với người từng nghiên cứu Lý học Đông phương.

Còn về hoa sen, tất cả hình tượng chư Phật, Bồ-tát đều đứng trên hoa sen, vì hoa sen có những tính chất đặc thù mà các loài hoa khác không có. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA đã thuyết minh một cách tuyệt vời đóa hoa vi diệu này. Ở đây không cần kê ra, chỉ biết rằng việc xây dựng hình ảnh Phật trên hoa sen là một sáng tạo độc đáo nhất của kinh điển Đại thừa. Nó đã biểu hiện trọn vẹn tinh thần Bồ-tát đạo, xuyên suốt giáo lýtrở thành hình tượng mỹ học đẹp nhất về cuộc đời của đấng Giáo chủ, thay vì sanh ra trong máng lừa hay trong một hòn đá nào đó…

Trong một số bản Hán dịch không chỉ nói Thái tử bước đi trên 7 hoa sen mà còn có thuyết Tứ phương thất bộ", hoặc "Châu hành thất bộ" (tức Tứ phương tứ duy), hẳn cũng để thăng hoa ý nghĩa thất bộ lên cho trọn vẹn mà thôi. KINH PHƯƠNG QUẢNG ĐẠI TRANG NGHIÊM 3 (Đại Chánh 3, 55 thượng) ghi : "Tự đi 7 bước về phía Đông (…) nói lời thế này: Ta đạt được tất cả thiện pháp nên vì chúng sanh mà nói. Lại đi 7 bước về phía Nam nói lời thế này: Ta ứng thọ sự cúng dường của cõi trời người. Lại đi 7 bước về phía Tây, nói lời thế này: Ta là bậc tối tôn tối thắng trong thế gian, đây chính là thân sau cùng của ta, dứt tận sanh lão bệnh tử. Lại đi 7 bước về phương Bắc, nói lời thế này: Ta là bậc Vô thượng thượng trong tất cả các loài chúng sanh. Lại đi 7 bước về phương dưới, nói lời thế này: Ta đang hàng phục tất cả quân ma, đối với các khổ cụ hay mãnh hỏađịa ngục, ta thi thiết đại pháp môn, mưa đại pháp vũ, khiến cho chúng sanh tận niềm an lạc. Lại đi 7 bước về phương trên, nói lời thế này: Ta đang làm chỗ cho tất cả chúng sanh chiêm ngưỡng".

Theo KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP 8, bước đi 7 bước về 4 phía để biểu thị sự thù thắngthế gian không gì sánh bằng. KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN 3 nêu ý nghĩa của Tứ phương thất bộ như sau:

- Bảy bước về phía Đông biểu thị bậc đứng đầu dẫn đạo chúng sanh.

- Bảy bước về phía Nam là thị hiệnchúng sanh làm phước điền vô thượng.

- Bảy bước về phía Tây là thị hiện thân sau cùng vĩnh viễn đoạn tận cái khổ sanh lão bệnh tử.

- Bảy bước về phương Bắc là thị hiện đã độ hóa các Hữu sanh tử.

Hai thuyết nói trên đủ cho ta hiểu được ý nghĩa Tứ phương thất bộ của kinh điển Đại thừa. Sự ra đời của Đức Phật là một đại sự nhân duyên, hiển bày pháp môn tối tôn tối diệu, cho nên hình ảnh nào cũng được thăng hoa đến mức tột cùng như thế.

Chi tiết quan trọng nhất trong hiện tượng Lâm-tỳ-ni là câu nói của Thái tử: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn…". Đây là câu kệ có nhiều dị bản và gây nhiều ý kiến khác nhau. Để có một cái nhìn tổng quát, chúng tôi xin liệt kê một số câu kệ này trong nhiều bản kinh khác nhau để tiện khảo cứu: 

- KINH PHỔ DIỆU 1 (Đại Chánh 3, 494 thượng) ghi: "Ngã đương cứu độ thiên thượng thiên hạ, vi thiên nhân tôn, đoạn sanh tử khổ, tam giới vô thượng, sử nhất thiết chúng sanh vi thường an".

- KINH THÁI TỬ THỤY ỨNG BẢN KHỞI, thượng (Đại Chánh 3, 473 hạ) ghi : "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, tam giới giai khổ, ngô đương an chi".

- KINH TRƯỜNG A-HÀM 1 (Đại Chánh 1, 4 hạ) ghi: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử".

- KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP 7 (Đại Chánh 3, 687 trung) ghi: "Thế gian chi trung, ngã vi tối thắng, ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận".

- THÍCH CA PHỔ 1 (Đại Chánh 50, 16 thượng) ghi: "Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung, tối tôn tối thắng, vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ, thử sanh lợi ích nhất thiết thiên nhân".

Còn có nhiều bản kinh nói về lịch sử Đức Phật và câu kệ này. Những bản được kê ra đây tương đối phổ biến đối với người tìm hiểu lịch sử Đức Phật, nên chúng tôi đặc biệt dẫn dụng. Ở trên, chúng ta thấy dù các câu kệ khác nhau, nhưng nội dung ý nghĩa lại tương đồng. Câu nói chính yếu vẫn là "Trong cõi trời người chỉ có ta là tôn quý hơn cả". Câu còn lại thì mỗi bản mỗi khác, hoặc là Ta ra đời để làm an ổn chúng sanh trong tam giới khổ đau, hoặc độ hết sanh lão bệnh tử của chúng sanh, hoặc nói đây là tối hậu thân của ta… Tóm lại, câu kệ thuyết của Đức Phật khi mới đản sanh trong các kinh là nhất quán. Vấn đề còn lại là hiểu câu nói ấy như thế nào. Chúng tôi xin cắt phần ý nghĩa thành một mục riêng để tiện trình bày.

3. Ý nghĩa câu kệ thuyết ở vườn Lâm-tỳ-ni 

Câu kệ phổ thông được các sách vở hiện tại thường dẫn dụng là :

"Thiên thượng thiên hạ 
Duy ngã độc tôn 
Vô lượng sanh tử 
Ư kim tận hỷ". 
Toàn bộ ý nghĩa của câu kệ trên đều tập trung ở một chữ vô cùng quan trọng, đó là chữ "Ngã". Hiểu được chữ "Ngã" là hiểu câu kệ này. Và khi đã hiểu được câu kệ này rồi thì họa sĩ có thể vẽ thêm bất kỳ một hình ảnh cao đẹp nào vào vườn Lâm-tỳ-ni cũng được. Chính vì lẽ đó chúng tôi không bàn luận gì thêm về các chi tiết khác như hai dòng nước tắm cho Thái tử, Tiên A-tư-đà, hoa Vô-ưu hoặc chư thiên quy ngưỡng. Tất cả các pháp đều nương vào một pháp, và một pháp là tất cả pháp.

"Thiên thương thiên hạ duy ngã độc tôn…", dịch một cách nôm na là "Trên trời dưới trời chỉ có ta là cao quý hơn hết…".

Chính bản thân người viết cũng từng nghĩ một cách trẻ con rằng: "Sao Phật có vẻ tự cao tự đại quá! Biết rằng Ngài tuyệt thế vô luân đấy, nhưng hãy để người ta ca tụng …".

Để bào chữa cho cái hiểu nông nỗi này, có nhiều người đã dịch câu trên theo một cách khác, đại loại: Có khi ta sanh lên cõi trời (thiên thượng), có khi ta sanh về cõi người hay các cõi dưới (thiên hạ) cũng chỉ vì cái "Ngã" này. Ta chịu sanh tử trong vô lượng kiếp (vô lượng sanh tử) cũng chỉ vì cái "Ngã" này, đến ngày nay là đã chấm dứt (Ư kim tận hỷ).

Hiểu như thế đôi lúc còn tai hại hơn nữa. Lẽ nào lời tuyên ngôn lập giáo của một đấng Giáo chủ khi đản sanh lại là một cái thở phào nhẹ nhõm khi đã thoát được cái ngã tầm thường ấy thôi sao? Nếu Phật chỉ là người thoát khỏi bốn thứ chấp Ngã si, Ngã mạn, Ngã kiến, Ngã ái thì Ngài chỉ là một A-la-hán đơn thuần. Ngã chấp đã tận, còn Pháp chấp thì sao?

Thực ra, đối với triết học hiện đại, luận đề về Ngã không còn là vấn đề để phải tốn nhiều giấy bút, nhưng đối với 2500 năm trước trong bối cảnh đa nguyên của Ấn Độ, "Ngã" là một phạm trù triết học cực kỳ quan trọng. Trước hết, chúng ta truy nguyên chữ "Ngã" trong triết học Ấn Độquan niệm diễn tiến của nó qua các tông phái.

Theo PHẬT QUANG ĐẠI TỪ ĐIỂN, Ngã, tiếng Phạn là Àtman, nguyên nghĩa là hô hấp. Từ nghĩa này phát sanh nghĩa sanh mạng, tự kỷ, thân thể, tự ngã, bản chất, tự tánh. Ngã còn chỉ chung cho chủ thể độc lập vĩnh viễn, tiềm ẩn trong nguồn gốc của tất cả sự vật và chi phối cá thể thống nhất.

Từ thời Lê-câu Phệ-đà (Phạn : R易- veda, khoảng 1500 năm trước TL) đã có sử dụng chữ "Ngã", đến thời đại Phạm Thư (Phạn : Bràhman từ năm 1000 - 800 trước TL) thì hơi thở (Phạn : Pràn trong chủ thể hoạt động của sanh mạng dần dần diễn tiến thành hiện tượng sanh mạng theo ý nghĩa cá thể, còn "Ngã" thì lại là bản chất. Như trong Bách Đạo Phạm Thư (Phạn : S١tapatha), các hiện tượng sanh mạng như ngôn ngữ, thị lực, thính lực… lấy "Ngã" làm cơ sở để biểu hiện, xem "Ngã" là chủ tể đồng với Tạo vật chủ (Phạn: Prajàpati). Đến thời đại Áo Nghĩa Thư (Phạn : Upanis, từ năm 800 - 600 trước TL), tức cùng thời đại Đức Phật, "Ngã" được xem là cái sáng tạo ra vũ trụ, ngã là cá nhân (tiểu ngã) đồng thời cũng là nguyên lý trung tâm của vũ trụ (Đại ngã, Phạn : Brahman). Tiến xa hơn, thời kỳ này còn chủ trương chỉ có "Ngã" mới là chân thực tại, ngoài ra đều là hư huyễn (Phạn : Màyà). Tóm lại, có bốn quan niệm về "Ngã": Cá thể là Ngã (ngũ uẩn), sanh mạng trung tâm trong các cá thể là Ngã, nguyên lý vũ trụ là Ngã và tính chất (tự tánh) cá hữu trong mỗi yếu tố tồn tại là Ngã. Trong các kinh Nikàya và Àgama đều phủ nhận bốn quan niệm về Ngã trên. Đức Phật cho các quan niệm trên là Ngã sởNgã sở kiến. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ tuy phủ định ngã của sanh mạng cá thể (tức nhân ngã), nhưng thừa nhận ngã thật thể (tức pháp ngã, yếu tố tạo thành tất cả sự tồn tại) là hằng hữu. Độc Tử Bộ, Chánh Lượng Bộ chủ trương Ngã và Ngũ uẩn bất tức bất ly. Kinh Lượng Bộ thì có thuyết Bổ-đặc-già-la thắng nghĩa… Còn Phật giáo Đại thừa chẳng những phủ nhận cái ngã cá thể (nhân ngã) mà còn phủ nhận cả pháp ngã tồn tại đã được các bộ phái thừa nhận. "Tất cả pháp vô ngã" được xem là 1 trong 3 hoặc 4 pháp ấn của Phật giáo. Tiểu thừa chủ trương nếu diệt trừ hết phiền não thì đạt đến cảnh giới Niết-bàn; còn Đại thừa thì chủ trương tất cả sự tồn tại là Không, cảnh giới Niết-bàn là tuyệt đối tự do. Sự tự do tuyệt đối này chính là "Ngã" của Phật, là Niết-bàn của Đại thừa, Pháp thân của Như Lai. Theo KINH NIẾT BÀN 23 (bản Bắc), Niết-bàn có bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Giác ngộ được cảnh giới Niết-bàn này thì vĩnh viễn bất biến, đó gọi là Thường. Cảnh giới ấy không có khổ, chỉ có sự an vui, đó gọi là Lạc. Tự do tự tại, không có mảy may câu thúc, đó gọi là Ngã. Không có sự nhiễm ô của phiền não, đó gọi là Tịnh. Cái ngã ở đây là Chân ngã, khác xa cái ngã chấp trước của phàm phuNhị thừa.

Trở lại câu kệ của Phật, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", chúng ta có thể hiểu rằng chỉ có Niết-bàn là hơn hết, chỉ có giác ngộ, bậc Giác ngộ (Giác giả, Phật) là tôn quý hơn hết. Đó là chỗ cứu cánh của Phật giáo. Không có cái Ngã ấy, toàn bộ lâu đài kinh điển Phật giáo chỉ được xây dựng trên kiến chấp bình thường.

"Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" là Chân thường, Chân ngã; "Vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ" là Chân lạc, Chân tịnh. Bốn câu kệ trên nói đến bốn đức của Niết-bàn. Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai ngộ chúng sanh nhập Phật tri kiến, nhập vào cái Ngã tự do tuyệt đối này. Nếu Phật mà không tối tôn thì sao gọi là Phật ? Câu kệ hiển bày một lý tánh tuyệt đối, mưa đại pháp vũ, thổi đại pháp loa, khiến tà ma ngoại đạo phải điếc tai, thiên thượng thiên hạ phải quy kính. Phật đã nói Đại pháp từ khu vườn Lâm-tỳ-ni nhỏ bé này.

Tóm lại, dù hiện tượng Lâm-tỳ-ni là một sự thật lịch sử hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng thì nó vẫn có một giá trị tuyệt đối. Sự ra đời của Đức Phật đã thổi một ngọn gió mát mẻ vào thành trì kiên cố của tư tưởng Phệ-đà, đã rọi một tia nắng ấm đầu tiên đến màn đêm tâm thức Ấn Độ, và bình minh tiếp tục rạng rỡ trên những khung trời triết lý Đông phương cho đến toàn thể nhân loại hiện nay. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả đều có thể thành Phật là một tuyên ngôn tự do vĩ đại nhất của loài người. Đức Phật đã trả quyền con người lại cho con người, con người không còn nô lệ bởi thần linh hay một thế lực siêu hình nào cả. Đó là Nhân bản Phật giáo. Sự ra đời của Đức Phật không chỉ xóa bỏ bốn giai cấpẤn Độ mà là xóa bỏ hết mọi cảm thức phân biệt giữa con ngườicon người trong toàn thể nhân loại, khơi mở một chân trời thực tại uyên nguyên cho tất cả những ai dám rũ bỏ phiền não nhiễm ô để hướng về thể tánh thường hằng của vạn pháp.

Bây giờ thì chúng ta lại chiêm ngưỡng hình ảnh vườn Lâm-tỳ-ni với một tâm hồn hoan hỷthành kính vô biên. Kìa! Hoa Mạn-đà-la, mưa hoa Mạn-đà-la, nhạc Càn-thát-bà. Hoa Vô-ưu hay Linh thoại dưới rặng Hymalaya? Một đóa sen, bảy đóa sen, vô lượng đóa sen vi diệu, cây lá xanh hơn, chim hót rộn rã hơn, bầu trời xanh lơ, hào quang chiếu diệu. Còn có một điều, một điều mới lạ nữa – niềm tin bất diệt chói lọi trong hồn Thích tử xưa sau. Xin đảnh lễ vườn Lâm-tỳ-ni như đảnh lễ vô biên chân lý nhiệm mầu.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19433)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18548)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16079)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29888)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25481)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21615)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17820)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20833)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26344)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33335)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52168)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22887)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23418)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39663)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21801)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22390)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6847)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22743)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69825)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44023)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23087)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35050)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44108)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42923)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44433)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24918)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24370)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39228)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39246)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17263)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18053)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19269)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35681)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24230)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19599)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20414)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18319)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19011)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18949)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17481)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19328)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30843)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19197)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20536)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19568)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19775)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29839)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17847)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19416)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19894)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58787)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24412)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23529)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39780)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26729)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40782)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22876)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22931)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21605)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18632)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22603)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21092)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19226)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20938)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20339)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30563)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20194)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17476)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16606)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16868)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14969)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14844)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22877)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16053)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16221)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15273)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26131)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17201)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15801)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19783)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17681)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14693)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14752)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19139)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15129)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33073)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17496)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19140)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21835)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23026)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16628)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16489)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16530)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23001)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26407)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12757)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29526)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27729)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25938)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18469)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant