Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa đạo mùa Phật đản

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10279)
Hoa đạo mùa Phật đản


Hoa đạo mùa Phật đản
Em yêu mùa sen nở
Nhớ Gia đình Phật tử
Áo lam cài hoa sen
Thương bầy chim oanh vũ…
(“Nhớ mấy mùa sen”, Trần Thị Diệu Phước, 1963)

Em Oanh vũ nữ với bài thơ dài, “Nhớ mấy mùa sen”, đoạt giải nhất trong cuộc thi viết ngành Oanh của liên Gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế năm 1963, nay đã là bà nội, bà ngoại ở lứa tuổi lục tuần. Đã 47 năm rồi tôi chưa gặp lại em, nhưng bài thơ xưa thì vẫn nhớ. Bài thơ hồn nhiêntrong sáng đượm màu Hoa đạo.

Cái đẹp hình tướng có thể tàn phai, nhưng cái đẹp của tư tưởng thì không phai tàn.

Năm nay…
“Mùa cherry, tôi đi tìm cú…!”

Nếu “cú” đây chẳng phải là cú pháp, là văn chương tuyệt cú mà chỉ là cú vọ, cú mèo, cú tráu… thì không biết cái hồn văn chương thiên cổ có bị phai tàn chăng?

Nhưng dẫu sao thì đó vẫn là sự thật.

Ở xứ Huê Kỳ cái gì cũng có, nhưng lại thiếu một mùa sen ngày Phật Đản.

Những năm qua, người Việt ở Mỹ thường chú ý mùa cherry trùng với mùa Phật Đản trên xứ nầy. Cho nên có nhiều người cho mùa cherry là mùa Quả Phật khi mùa sen nở là mùa Hoa Phật. Mùa Hoa Phật xứ Mẹ và mùa Quả Phật xứ Người.

“Cherry” – tiếng Mỹ có nghĩa là hoa anh đào; mà cũng là trái mận đào. Người Việt ở nước ngoài nói tới trái cherry thì ai cũng biết nhưng nói đến trái “mận đào” thì… hết biết luôn!

Quả mận đào nhỏ như trái bồ quân nhưng có tới 5 màu: Trắng, vàng, đỏ, tím và đen. Nghe nói trái mận đào mang tinh thần hoa đạo. Hoa đạo (Kado) là nghệ thuật cắm hoa truyền thống của Nhật Bản. Lịch sử Hoa đạo xuất hiện từ khi các thiền sư Trung Hoa đem đạo Phật vào đất Nhật từ thế kỷ thứ 6. Mỗi đóa hoa không có tự thể tánh. Hoa phải có sự hợp duyên của thiên nhiên mới thật là hoa: Một giọt sương long lanh, một chút gió phơ phất, một chú bướm vàng lãng đãng, một đôi mắt ngắm tự tâm hồn… thì hoa mới đẹp. Vì thế nghệ thuật Hoa đạo là “hoa trong ta và ta trong hoa” giữa khoảng trời thu nhỏ.

Giống mận đào gần với Hoa đạo vì cũng cần “hợp duyên” như thế. Nghe nói nếu trồng một cây thì thường không có trái; cô đơn ái dục vô tâm khởi, chăng (?!) Nên những tài tử cây kiểng thường ghép cả 3 loại mận đào – vàng, đỏ, tím – vào một cây. Mười năm trước, tôi trồng một cây mận đào ghép như thế ở vườn sau nhà. Chỉ 3 năm sau là cây bắt đầu có trái. Những trái mận đào nhỏ nhắn, mơn mởn chín mọng đủ màu, trĩu quả như những cành hoa. Vị ngọt, hương hiền, pha chút chua chua điểm làm duyên. Tôi thường hái lứa mận đào đầu tiên cúng Phật mà cứ mường tượng như những đóa sen mùa Phật Đản trên quê mẹ ngày xưa.

Năm nay, cây mận đào vườn sau ấy đã cao vượt quá mái nhà. Khu nhà mới Natomas nơi tôi ở, nguyên được xây dựng trên một cánh đồng trống bây giờ đã thành một rừng cây xanh nho nhỏ. Người Mỹ chỉ trồng loại cây có hoa và cây xanh gây bóng mát quanh nhà. Rất ít nhà chịu trồng cây ăn quả vì dân xứ nầy thích ăn cây quả bán ở tiệm, an toàn về mặt vệ sinh hơn là ra vườn hái trái. Nhà nào trồng cây quả, thường để chín rụng đầy vườn, lâu ngày thành rác bẩn.

Cuối mùa Xuân, chim chóc bốn phương từ đâu tụ về. Mới 3 giờ sáng, chim đã bắt đầu ríu rít gọi đàn. Cây mận đào nhà tôi, nhánh nào cũng đầy trái, bỗng trở thành kho lương thực tươi mát cho bầy chim. Mỗi sáng sớm, ra nhìn hột và quả mận đào chim ăn rụng tả tơi trên thảm cỏ, lúc đầu tôi cảm thấy tiêng tiếc nhưng bóng dáng đủ màu và tiếng hót hồn nhiên của bầy chim mang niềm vui bù lại.

Gần Rằm Tháng Tư, trái mận đào chín mọng, chim càng rủ nhau lựa quả ngon, mổ rụng vung vãi càng nhiều. Tình yêu thiên nhiên, chim muông có cánh cửa giới hạn của lòng sở hữu. Ngắt một nhánh hoa vườn người hay đuổi bầy chim ăn quả vườn nhà là mình đang khép lại cuộc ngao du về khóa ngõ nhà mình. Tôi đi tìm con cú; một con cú lộng giả thành chân làm bù nhìn đuổi bầy chim lạm dụng quyền… làm chim không giới hạn. Phải cần một sự dữ dằn, xấu xí hình tướng để xua đuổi hình ảnh hoa bướm của lòng tham.

Suốt mấy ngày anh chủ nhà trong tôi cứ đi tìm hình giả một con cú mèo trông càng dữ dằn, gớm ghiếc hơn cả cú thật càng tốt. Cái nhìn dư ảnh trong tâm và ý nghĩ của tôi chuyển dần từ bầy chim líu lo buổi sớm sang con cú vọ, từ khi tôi đi tìm cú đuổi chim. Vào những hàng bán đồ chơi chim chóc, mắt tôi nhìn vào hình chim muông đủ màu, đủ loại mà chẳng thấy con nào vì chỉ đi tìm con cú. Bắt gặp một dáng vẻ sinh vật dữ dằn nào tôi đều chăm chú nhìn ngắm, nhưng hầu hết chưa đủ “dễ sợ” làm bầy chim sợ hãi. Cả mấy ngày, nhìn đâu tôi cũng mường tượng về con cú lý tưởng của mình. Đó là con cú sẽ làm bầy chim kia kinh hồn bạt vía. Con cú như bến đậu của dòng suy tưởng xua đuổi trong tôi vào lúc này.

Đã đi tìm thì sớm muộn gì cũng sẽ gặp. Theo lời mách miệng của một anh Mỹ đen gặp tình cờ ở Country Mall, tôi vào chợ Ross, tới khu bán hàng trang hoàng ảnh tượng. Những tượng Phật, Chúa, Thánh, Thần, thiên tài, nghệ sĩ… xếp hàng trên giá mờ nhạt. Những muôn thú cây cảnh có như không. Mắt tôi sáng lên với một hình giả con cú làm bằng chất nhựa dẻo được sơn phết nhiều màu nhưng hai màu đen trắng đối chọi níu chặt cái nhìn của tôi vào nó. Tâm tôi đang trên cuộc hành trình tìm cú; ý tôi đang trôi trong dòng tới cú. Nên gặp được thân cú dữ dằn thật là một hạnh phúc. Tôi phấn chấn mua về treo cao chót vót trên cây mận đào. Bên cạnh còn treo thêm một dãy dĩa CD lóng lánh hai mặt cũng theo lời khuyên của người mách nước.

Sáng đầu tiên vừa mới thức dậy là tôi mở cửa chạy ngay ra vườn sau nhìn con cú treo trên cây mận đào. Con cú phản ánh mặt trời. Dĩa CD bắt nắng loang loáng. Một cuộc phản công hùng tráng vô cùng. Không có bóng một con chim nào liều lĩnh lại gần. Tiếng chim râm ran chỉ còn nghe vọng lại từ phía vườn nhà ai. Mắt cười nhìn con cú đồng minh vểnh cái mỏ quặm nhọn hoắt trên cây nhìn xuống, tôi xoa tay hoan hỷ. Cảm nhận đồng hành. Vừa đúng dịp lễ Phật Đản, tôi hái những trái mận đào to nhất còn sót lại sau cuộc xâm lăng của bầy chim và đơm lên bàn thờ cúng Phật. Khói nhang bay thanh thoát sao tôi cứ mường tượng như dáng hình con cú. Giữa cuộc binh đao, lòng người chiến sĩ nào mà không vương mang mùi thuốc súng!

Những ngày tiếp theo, mỗi sáng tôi đều có dĩa mận đào tươi cúng Phật. Con cú và tôi vẫn gần gũi nhìn nhau mỗi ngày. Tiếng chim xa lắc. Vài con chim sà cánh đậu trên cây; nhớn nhác rồi bay đi. Tôi đã lấy lại được cây cherry. Trái bây giờ chín tới. Sau trận mưa giông, trái rụng, gió lớn thổi bay tứ tán đầy sân. Vắng tiếng chim buổi sớm, buổi chiều làm tôi nhớ. Nỗi nhớ mơ hồ như vọng ra từ góc khuất của lòng mình. Vắng những cánh chim. Cũng đàn chim ấy, nhưng trước đây có vẻ như ranh mãnh, bon chen; sao bây giờ tôi thấy chúng hồn nhiênthơ dại như bầy oanh vũ ngày xưa. Trên cây mận đào đong đưa với gió chỉ còn con cú. Gió lên, trái rụng. Trên xác lá và trái chín vỡ tan, sáng nay tôi tìm thấy hai tổ chim con rơi xuống. Những con chim non đã chết queo trong tổ. Có lẽ vì mấy ngày qua chim mẹ sợ không dám tới, bỏ đói đàn con.

Con cú, dẫu chỉ là cái mã vô hồn nhưng sao nó vẫn lay động được cảm tính, tâm thức của sự sống. Đàn chim sợ nó như một phản ứng bản năng. Tôi gần với nó vì nó giúp tôi loại trừ được bầy chim mà tôi coi như một đối tượng xâm phạm quyền sở hữu của mình. Chỉ có một điều tôi quên mất. Đó là quyền sở hữu những gì mà tôi trân quý, nhưng có thể chẳng có giá trị gì với người ngoài và cũng chẳng giúp được gì cho ai: Cây cherry, cây mận đào ở Mỹ nhiều lắm; nhưng chẳng ai biết hay quan tâm là cái mô tê gì ở Việt Nam và nhiều xứ khác. Với tôi, cây mận đào làm hoa trái cúng Phật trong mùa Phật Đản là một duyên lành ở xứ người. Tôi thường loay hoay tìm Phật tận đâu đâu ở khu vườn Lâm Tỳ Ni, ở cung trời Đâu Suất nhưng lại quên “ông Phật” trong tôi mà chính đức Phật từ hơn 2500 trước đã thọ ký cho mỗi chúng sinh về sau. Con cú cứ ám ảnh cái nhìn, cái nghĩ của tôi như một ý nghiệp mây mù thiếu mầm độ lượng. Tôi phải từ bỏ nó để trở lại với chính mình.

Rũ sạch định kiến và sự ám ảnh thật không đơn giản. Mấy chú chim con chết trong tổ ám ánh tôi không dứt. Phù du và bé bỏng thế thôi, nhưng mỗi hạt cát đều có quyền sống riêng của nó. Nói chi tới lòng Từ Bi cho to tát. Chỉ nói tới tình thương nhỏ bé đối với bầy chim cũng đã cần tới cái tâm không khóa, không gài. Tôi lặng lẽ bẻ khóa như một lời cầu nguyện. Rồi tôi trả lại con cú cho nhà hàng Ross – một con cú giả mặt mày còn nguyên vẹn – lấy lại chút tiền còm giúp quỹ trẻ mồ côi. Đàn chim lại trở về. Tiếng hót đánh thức tôi ngồi uống trà để viết những dòng nầy khi trời chưa sáng.

*

Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa – một vị Phật tương lai – ra đời.

Từ ấy, hoa Mạn Đà La thành biểu tượng của Hoa đạo. Nghìn năm sau, hoa Mạn Đà La là loài hoa “hình vô hình hình, tướng vô tướng tướng” của tâm tưởng khi hướng về đức Phật. Bao tấm lòng thực tế tìm hoa. Bao tâm hồn mơ mộng nghĩ về hoa.

Trong kinh Phật thường thấy xuất hiện nhiều loài hoa trong thời thuyết pháp của Phật như: Mưa hoa Mạn Đà La (Mandàrapushpa), Mạn Châu Sa, Mạn Thù Sa, Ma ha Mạn Đà La, Ma ha Mạn Thù Sa. Người ta cho đó là những loại Hoa Trà (Camelia); mà sinh tộc hoa trà thì có hàng trăm loại. Và cũng từ ấy, những tâm hồn mang khuynh hướng tiếp cận với sự huyền nhiệm của tâm linh đất trời không ngớt rải hoa và quét hoa xung quanh những tượng đài Phật giáo.

Trong bao nhiêu lần lễ hội Phật giáo, nhất là những lần lễ hội quanh tôn tượng đức Quán Thế Âm, người ta không ngớt cãi nhau về mây ngũ sắc, về hoa Mạn Đà La rãi xuống trần gian từ giữa khung trời phiêu linh vô tướng. Kẻ “thấy” thì cho đó là phép mầu huyền nhiệm. Người “không” thì cho đó là một ám ảnh mang tính chất mê tín dị đoan. Bậc “vô tướng vô tâm” thì mỉm cười thinh lặng. Người đời sống chết với tình yêu nhưng chẳng ai vẽ được chân dung một Tình Yêu có thật.

Và nữa, hoa nở chim kêu. Những loài chim ẩn hiện trong kinh Phật như Oanh Vũ, Anh Lạc, Cộng Mạng, Ka Lăng Tần Già vẫn thường xuyên xuất hiện. Bóng dáng cùng tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp nở những mầm hoa hạnh phúc. Nhiều người đã cất công lặn lội qua Ấn Độ, vượt sông Hằng tìm về đất Phật. Dấu tích ngày xưa đã thành hoang phế. Còn chăng những phế tích được tôn tạo lại như những biểu tượng. Người tìm về đất Phật chỉ còn được kể lại rằng, Ka Lăng Tần Già là một loài chim thuộc giống chim sẻ Ấn Độ. Loài chim ấy ẩn cư trong suốt mùa Hè nóng như thiêu đốt của xứ Ấn và khi chim cất tiếng kêu là mở đầu cho Gió Mùa sắp tới từ tháng Tư đến tháng Mười. Tiếng chim như là biểu tượng âm thanh vui sống vỡ bờ làm vạn vật hồi sinh. Lời của Phật cũng như tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp con người hồi sinhhạnh phúc từ sự ẩn nhẫn cam chịu khổ đau của dòng sống tạm bợ mà phải cột trói trong vòng duyên nghiệp trùng trùng. Dr. Satesh Pande, nhà sinh vật học chuyên khảo về những loài chim đã sưu tầm và mô tả hình ảnh cùng tiếng hót thanh thoát của loài chim Ka Lăng Tần Già (Kalavinka Sparrow). Nhưng loài hoa Hoa đạo và Chim Đạo chỉ nở được và hót được khi trái tim là cánh cửa không cài, mở rộng đón một bầu trời xanh.

Ít nhất đã có một lần trong đời, tôi đi tìm chim cú mới cảm nhận được tâm hồn mình nhuộm cú khi mãi miết đi tìm bóng cú giữa thiên nhiên bao la nhưng không có chỗ an trú cho mình vì chén trà “đương niệm hiện tiền” đã đầy ắp. Muốn rót thêm một giọt mới pha, cũng phải cần đổ lớp cũ ra thôi!

Mùa Phật Đản, mong hoa Mạn Đà La nở khắp lòng người và tiếng chim Ka Lăng Tần Già làm đượm tình người. Hoa phi hoa, điểu phi điểu… Chẳng phải là hoa, chẳng phải là chim mà chỉ có tiếng vọng trong ta mang suối nguồn hạnh phúc cho mình.

North Highlands, mùa Phật Đản 2554 – 2010
Trần Kiêm Đoàn

Nguồn: Tập San Pháp Luân 74

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15573)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23022)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14049)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55103)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9163)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14440)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13881)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36314)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19873)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18164)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19208)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19140)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20280)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17635)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31524)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15934)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15016)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35935)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21047)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21595)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23394)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19483)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18944)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22940)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20182)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18363)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33410)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37719)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63640)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27436)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20276)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23027)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18891)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17911)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20934)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17361)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14467)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15994)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17465)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21978)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15100)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13504)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14363)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15385)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14983)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12514)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13187)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12402)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15416)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12866)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12200)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13197)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21644)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11277)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22722)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15082)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14945)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46180)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22448)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14572)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14729)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43855)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14572)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33309)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15397)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31228)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12525)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40387)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant