Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa đạo mùa Phật đản

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10299)
Hoa đạo mùa Phật đản


Hoa đạo mùa Phật đản
Em yêu mùa sen nở
Nhớ Gia đình Phật tử
Áo lam cài hoa sen
Thương bầy chim oanh vũ…
(“Nhớ mấy mùa sen”, Trần Thị Diệu Phước, 1963)

Em Oanh vũ nữ với bài thơ dài, “Nhớ mấy mùa sen”, đoạt giải nhất trong cuộc thi viết ngành Oanh của liên Gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế năm 1963, nay đã là bà nội, bà ngoại ở lứa tuổi lục tuần. Đã 47 năm rồi tôi chưa gặp lại em, nhưng bài thơ xưa thì vẫn nhớ. Bài thơ hồn nhiêntrong sáng đượm màu Hoa đạo.

Cái đẹp hình tướng có thể tàn phai, nhưng cái đẹp của tư tưởng thì không phai tàn.

Năm nay…
“Mùa cherry, tôi đi tìm cú…!”

Nếu “cú” đây chẳng phải là cú pháp, là văn chương tuyệt cú mà chỉ là cú vọ, cú mèo, cú tráu… thì không biết cái hồn văn chương thiên cổ có bị phai tàn chăng?

Nhưng dẫu sao thì đó vẫn là sự thật.

Ở xứ Huê Kỳ cái gì cũng có, nhưng lại thiếu một mùa sen ngày Phật Đản.

Những năm qua, người Việt ở Mỹ thường chú ý mùa cherry trùng với mùa Phật Đản trên xứ nầy. Cho nên có nhiều người cho mùa cherry là mùa Quả Phật khi mùa sen nở là mùa Hoa Phật. Mùa Hoa Phật xứ Mẹ và mùa Quả Phật xứ Người.

“Cherry” – tiếng Mỹ có nghĩa là hoa anh đào; mà cũng là trái mận đào. Người Việt ở nước ngoài nói tới trái cherry thì ai cũng biết nhưng nói đến trái “mận đào” thì… hết biết luôn!

Quả mận đào nhỏ như trái bồ quân nhưng có tới 5 màu: Trắng, vàng, đỏ, tím và đen. Nghe nói trái mận đào mang tinh thần hoa đạo. Hoa đạo (Kado) là nghệ thuật cắm hoa truyền thống của Nhật Bản. Lịch sử Hoa đạo xuất hiện từ khi các thiền sư Trung Hoa đem đạo Phật vào đất Nhật từ thế kỷ thứ 6. Mỗi đóa hoa không có tự thể tánh. Hoa phải có sự hợp duyên của thiên nhiên mới thật là hoa: Một giọt sương long lanh, một chút gió phơ phất, một chú bướm vàng lãng đãng, một đôi mắt ngắm tự tâm hồn… thì hoa mới đẹp. Vì thế nghệ thuật Hoa đạo là “hoa trong ta và ta trong hoa” giữa khoảng trời thu nhỏ.

Giống mận đào gần với Hoa đạo vì cũng cần “hợp duyên” như thế. Nghe nói nếu trồng một cây thì thường không có trái; cô đơn ái dục vô tâm khởi, chăng (?!) Nên những tài tử cây kiểng thường ghép cả 3 loại mận đào – vàng, đỏ, tím – vào một cây. Mười năm trước, tôi trồng một cây mận đào ghép như thế ở vườn sau nhà. Chỉ 3 năm sau là cây bắt đầu có trái. Những trái mận đào nhỏ nhắn, mơn mởn chín mọng đủ màu, trĩu quả như những cành hoa. Vị ngọt, hương hiền, pha chút chua chua điểm làm duyên. Tôi thường hái lứa mận đào đầu tiên cúng Phật mà cứ mường tượng như những đóa sen mùa Phật Đản trên quê mẹ ngày xưa.

Năm nay, cây mận đào vườn sau ấy đã cao vượt quá mái nhà. Khu nhà mới Natomas nơi tôi ở, nguyên được xây dựng trên một cánh đồng trống bây giờ đã thành một rừng cây xanh nho nhỏ. Người Mỹ chỉ trồng loại cây có hoa và cây xanh gây bóng mát quanh nhà. Rất ít nhà chịu trồng cây ăn quả vì dân xứ nầy thích ăn cây quả bán ở tiệm, an toàn về mặt vệ sinh hơn là ra vườn hái trái. Nhà nào trồng cây quả, thường để chín rụng đầy vườn, lâu ngày thành rác bẩn.

Cuối mùa Xuân, chim chóc bốn phương từ đâu tụ về. Mới 3 giờ sáng, chim đã bắt đầu ríu rít gọi đàn. Cây mận đào nhà tôi, nhánh nào cũng đầy trái, bỗng trở thành kho lương thực tươi mát cho bầy chim. Mỗi sáng sớm, ra nhìn hột và quả mận đào chim ăn rụng tả tơi trên thảm cỏ, lúc đầu tôi cảm thấy tiêng tiếc nhưng bóng dáng đủ màu và tiếng hót hồn nhiên của bầy chim mang niềm vui bù lại.

Gần Rằm Tháng Tư, trái mận đào chín mọng, chim càng rủ nhau lựa quả ngon, mổ rụng vung vãi càng nhiều. Tình yêu thiên nhiên, chim muông có cánh cửa giới hạn của lòng sở hữu. Ngắt một nhánh hoa vườn người hay đuổi bầy chim ăn quả vườn nhà là mình đang khép lại cuộc ngao du về khóa ngõ nhà mình. Tôi đi tìm con cú; một con cú lộng giả thành chân làm bù nhìn đuổi bầy chim lạm dụng quyền… làm chim không giới hạn. Phải cần một sự dữ dằn, xấu xí hình tướng để xua đuổi hình ảnh hoa bướm của lòng tham.

Suốt mấy ngày anh chủ nhà trong tôi cứ đi tìm hình giả một con cú mèo trông càng dữ dằn, gớm ghiếc hơn cả cú thật càng tốt. Cái nhìn dư ảnh trong tâm và ý nghĩ của tôi chuyển dần từ bầy chim líu lo buổi sớm sang con cú vọ, từ khi tôi đi tìm cú đuổi chim. Vào những hàng bán đồ chơi chim chóc, mắt tôi nhìn vào hình chim muông đủ màu, đủ loại mà chẳng thấy con nào vì chỉ đi tìm con cú. Bắt gặp một dáng vẻ sinh vật dữ dằn nào tôi đều chăm chú nhìn ngắm, nhưng hầu hết chưa đủ “dễ sợ” làm bầy chim sợ hãi. Cả mấy ngày, nhìn đâu tôi cũng mường tượng về con cú lý tưởng của mình. Đó là con cú sẽ làm bầy chim kia kinh hồn bạt vía. Con cú như bến đậu của dòng suy tưởng xua đuổi trong tôi vào lúc này.

Đã đi tìm thì sớm muộn gì cũng sẽ gặp. Theo lời mách miệng của một anh Mỹ đen gặp tình cờ ở Country Mall, tôi vào chợ Ross, tới khu bán hàng trang hoàng ảnh tượng. Những tượng Phật, Chúa, Thánh, Thần, thiên tài, nghệ sĩ… xếp hàng trên giá mờ nhạt. Những muôn thú cây cảnh có như không. Mắt tôi sáng lên với một hình giả con cú làm bằng chất nhựa dẻo được sơn phết nhiều màu nhưng hai màu đen trắng đối chọi níu chặt cái nhìn của tôi vào nó. Tâm tôi đang trên cuộc hành trình tìm cú; ý tôi đang trôi trong dòng tới cú. Nên gặp được thân cú dữ dằn thật là một hạnh phúc. Tôi phấn chấn mua về treo cao chót vót trên cây mận đào. Bên cạnh còn treo thêm một dãy dĩa CD lóng lánh hai mặt cũng theo lời khuyên của người mách nước.

Sáng đầu tiên vừa mới thức dậy là tôi mở cửa chạy ngay ra vườn sau nhìn con cú treo trên cây mận đào. Con cú phản ánh mặt trời. Dĩa CD bắt nắng loang loáng. Một cuộc phản công hùng tráng vô cùng. Không có bóng một con chim nào liều lĩnh lại gần. Tiếng chim râm ran chỉ còn nghe vọng lại từ phía vườn nhà ai. Mắt cười nhìn con cú đồng minh vểnh cái mỏ quặm nhọn hoắt trên cây nhìn xuống, tôi xoa tay hoan hỷ. Cảm nhận đồng hành. Vừa đúng dịp lễ Phật Đản, tôi hái những trái mận đào to nhất còn sót lại sau cuộc xâm lăng của bầy chim và đơm lên bàn thờ cúng Phật. Khói nhang bay thanh thoát sao tôi cứ mường tượng như dáng hình con cú. Giữa cuộc binh đao, lòng người chiến sĩ nào mà không vương mang mùi thuốc súng!

Những ngày tiếp theo, mỗi sáng tôi đều có dĩa mận đào tươi cúng Phật. Con cú và tôi vẫn gần gũi nhìn nhau mỗi ngày. Tiếng chim xa lắc. Vài con chim sà cánh đậu trên cây; nhớn nhác rồi bay đi. Tôi đã lấy lại được cây cherry. Trái bây giờ chín tới. Sau trận mưa giông, trái rụng, gió lớn thổi bay tứ tán đầy sân. Vắng tiếng chim buổi sớm, buổi chiều làm tôi nhớ. Nỗi nhớ mơ hồ như vọng ra từ góc khuất của lòng mình. Vắng những cánh chim. Cũng đàn chim ấy, nhưng trước đây có vẻ như ranh mãnh, bon chen; sao bây giờ tôi thấy chúng hồn nhiênthơ dại như bầy oanh vũ ngày xưa. Trên cây mận đào đong đưa với gió chỉ còn con cú. Gió lên, trái rụng. Trên xác lá và trái chín vỡ tan, sáng nay tôi tìm thấy hai tổ chim con rơi xuống. Những con chim non đã chết queo trong tổ. Có lẽ vì mấy ngày qua chim mẹ sợ không dám tới, bỏ đói đàn con.

Con cú, dẫu chỉ là cái mã vô hồn nhưng sao nó vẫn lay động được cảm tính, tâm thức của sự sống. Đàn chim sợ nó như một phản ứng bản năng. Tôi gần với nó vì nó giúp tôi loại trừ được bầy chim mà tôi coi như một đối tượng xâm phạm quyền sở hữu của mình. Chỉ có một điều tôi quên mất. Đó là quyền sở hữu những gì mà tôi trân quý, nhưng có thể chẳng có giá trị gì với người ngoài và cũng chẳng giúp được gì cho ai: Cây cherry, cây mận đào ở Mỹ nhiều lắm; nhưng chẳng ai biết hay quan tâm là cái mô tê gì ở Việt Nam và nhiều xứ khác. Với tôi, cây mận đào làm hoa trái cúng Phật trong mùa Phật Đản là một duyên lành ở xứ người. Tôi thường loay hoay tìm Phật tận đâu đâu ở khu vườn Lâm Tỳ Ni, ở cung trời Đâu Suất nhưng lại quên “ông Phật” trong tôi mà chính đức Phật từ hơn 2500 trước đã thọ ký cho mỗi chúng sinh về sau. Con cú cứ ám ảnh cái nhìn, cái nghĩ của tôi như một ý nghiệp mây mù thiếu mầm độ lượng. Tôi phải từ bỏ nó để trở lại với chính mình.

Rũ sạch định kiến và sự ám ảnh thật không đơn giản. Mấy chú chim con chết trong tổ ám ánh tôi không dứt. Phù du và bé bỏng thế thôi, nhưng mỗi hạt cát đều có quyền sống riêng của nó. Nói chi tới lòng Từ Bi cho to tát. Chỉ nói tới tình thương nhỏ bé đối với bầy chim cũng đã cần tới cái tâm không khóa, không gài. Tôi lặng lẽ bẻ khóa như một lời cầu nguyện. Rồi tôi trả lại con cú cho nhà hàng Ross – một con cú giả mặt mày còn nguyên vẹn – lấy lại chút tiền còm giúp quỹ trẻ mồ côi. Đàn chim lại trở về. Tiếng hót đánh thức tôi ngồi uống trà để viết những dòng nầy khi trời chưa sáng.

*

Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa – một vị Phật tương lai – ra đời.

Từ ấy, hoa Mạn Đà La thành biểu tượng của Hoa đạo. Nghìn năm sau, hoa Mạn Đà La là loài hoa “hình vô hình hình, tướng vô tướng tướng” của tâm tưởng khi hướng về đức Phật. Bao tấm lòng thực tế tìm hoa. Bao tâm hồn mơ mộng nghĩ về hoa.

Trong kinh Phật thường thấy xuất hiện nhiều loài hoa trong thời thuyết pháp của Phật như: Mưa hoa Mạn Đà La (Mandàrapushpa), Mạn Châu Sa, Mạn Thù Sa, Ma ha Mạn Đà La, Ma ha Mạn Thù Sa. Người ta cho đó là những loại Hoa Trà (Camelia); mà sinh tộc hoa trà thì có hàng trăm loại. Và cũng từ ấy, những tâm hồn mang khuynh hướng tiếp cận với sự huyền nhiệm của tâm linh đất trời không ngớt rải hoa và quét hoa xung quanh những tượng đài Phật giáo.

Trong bao nhiêu lần lễ hội Phật giáo, nhất là những lần lễ hội quanh tôn tượng đức Quán Thế Âm, người ta không ngớt cãi nhau về mây ngũ sắc, về hoa Mạn Đà La rãi xuống trần gian từ giữa khung trời phiêu linh vô tướng. Kẻ “thấy” thì cho đó là phép mầu huyền nhiệm. Người “không” thì cho đó là một ám ảnh mang tính chất mê tín dị đoan. Bậc “vô tướng vô tâm” thì mỉm cười thinh lặng. Người đời sống chết với tình yêu nhưng chẳng ai vẽ được chân dung một Tình Yêu có thật.

Và nữa, hoa nở chim kêu. Những loài chim ẩn hiện trong kinh Phật như Oanh Vũ, Anh Lạc, Cộng Mạng, Ka Lăng Tần Già vẫn thường xuyên xuất hiện. Bóng dáng cùng tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp nở những mầm hoa hạnh phúc. Nhiều người đã cất công lặn lội qua Ấn Độ, vượt sông Hằng tìm về đất Phật. Dấu tích ngày xưa đã thành hoang phế. Còn chăng những phế tích được tôn tạo lại như những biểu tượng. Người tìm về đất Phật chỉ còn được kể lại rằng, Ka Lăng Tần Già là một loài chim thuộc giống chim sẻ Ấn Độ. Loài chim ấy ẩn cư trong suốt mùa Hè nóng như thiêu đốt của xứ Ấn và khi chim cất tiếng kêu là mở đầu cho Gió Mùa sắp tới từ tháng Tư đến tháng Mười. Tiếng chim như là biểu tượng âm thanh vui sống vỡ bờ làm vạn vật hồi sinh. Lời của Phật cũng như tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp con người hồi sinhhạnh phúc từ sự ẩn nhẫn cam chịu khổ đau của dòng sống tạm bợ mà phải cột trói trong vòng duyên nghiệp trùng trùng. Dr. Satesh Pande, nhà sinh vật học chuyên khảo về những loài chim đã sưu tầm và mô tả hình ảnh cùng tiếng hót thanh thoát của loài chim Ka Lăng Tần Già (Kalavinka Sparrow). Nhưng loài hoa Hoa đạo và Chim Đạo chỉ nở được và hót được khi trái tim là cánh cửa không cài, mở rộng đón một bầu trời xanh.

Ít nhất đã có một lần trong đời, tôi đi tìm chim cú mới cảm nhận được tâm hồn mình nhuộm cú khi mãi miết đi tìm bóng cú giữa thiên nhiên bao la nhưng không có chỗ an trú cho mình vì chén trà “đương niệm hiện tiền” đã đầy ắp. Muốn rót thêm một giọt mới pha, cũng phải cần đổ lớp cũ ra thôi!

Mùa Phật Đản, mong hoa Mạn Đà La nở khắp lòng người và tiếng chim Ka Lăng Tần Già làm đượm tình người. Hoa phi hoa, điểu phi điểu… Chẳng phải là hoa, chẳng phải là chim mà chỉ có tiếng vọng trong ta mang suối nguồn hạnh phúc cho mình.

North Highlands, mùa Phật Đản 2554 – 2010
Trần Kiêm Đoàn

Nguồn: Tập San Pháp Luân 74

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39719)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15320)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37342)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40069)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14313)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14838)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13842)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12684)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11769)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22551)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12514)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12575)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33259)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14839)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12461)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12390)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30424)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30687)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19373)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11852)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13198)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13201)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30702)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12043)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12728)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29419)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11789)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9993)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35410)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10053)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27813)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15504)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13686)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9849)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9697)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18330)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9575)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31748)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12337)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13322)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8832)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9446)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11946)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9077)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29373)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33272)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32276)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27108)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8454)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13017)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant