Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thị Hiện Đản sanh

10 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10647)
Thị Hiện Đản sanh


Trong cái nhìn tương quan đối đãi, cuộc sống hiện sinh chỉ là chuỗi ngày dài đầy khổ lụy. Có sự đau khổ ấy là vì chúng ta chấp lấy huyễn cảnh vô thường, cái không thật có cho là bền vững, và duy trì bản chất của tham ái, vô minh. Sự đảo điên của kiếp người cứ mãi xoay vần như vậy cho đến khi đuối sức, gục ngã lăn tròn trên con đường vô định. Kiếp này tương tác lên kiếp kia tạo ra một chuỗi tương tục trầm luân. Cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia như con lạc đà chở vật nặng, sức nặng càng trở nên nặng nề hơn khi đi trong sa mạc hoang vắng nơi mà kiếp sống của nó được định hình trên nấm mồ cát trắng; cũng vậy, kiến chấp về cuộc đời của chúng ta ngày một sâu dày hơn.

 Trong Khế kinh đức Phật dạy “Toàn thể thế giới đang bốc cháy. Toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể vũ trụ làm mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ run lập cập”. Lời dạy này mở ra một nhận thức mới về cuộc đờithiết lập nên một lộ trình tu tập cần thiết cho sự thể nghiệm tâm linh. Đó là nhận thức về một thế giới bất ancon đường tu tập để viễn ly ra khỏi thế giới bất an đó, nghĩa là chúng ta phải thực hành theo con đường Phật dạy, ứng dụng giáo lý vào trong cuộc sống của mình. Thế cho nên, khi trình bày cuộc đời đức Phậtchúng ta đang nghĩ về một con người siêu việtchân lý của vị ấy luôn vận hành tương tức với đời sống tâm linh, một quá trình hành đạo thực chứng nội tâm.

Cách đây 2632 năm, từ cung trời Đâu Suất, với bi nguyện độ sanh, Bồ-tát Hộ Minh đã thị hiện trần gian, sanh ra trong dòng họ Sakya, nước Ca-tỳ-la-vệ ở Ấn Độ. Ngài đản sanh trong giai đoạn lịch sử xã hội Ấn Độ phân tầng khắc nghiệt. Xã hội đã chế định nên những quy luật quá khắt khe với con người, tạo ra bao nhiêu bất công, áp bức, bóc lột, biến con người vốn đã nô lệ lại càng trở nên nô lệ tồi tệ hơn. Con người mất đi quyền sống, quyền được làm người. Trong sự chờ mong bi thương tuyệt vọng đó, đức Thế Tôn xuất hiện. Sự xuất hiện của Ngài được xem như là vị cứu tinh cho những người dân Ấn Độ nói riêng, và là vị Đại Cứu Tinh cho toàn nhân loại nói chung. Sự xuất hiện của Ngài báo hiệu suối nguồn tuệ giác rồi đây sẽ mở ra, con đường thực nghiệm tâm linh, đạt đến Thánh quả cho bất cứ ai đi trên con đường ấy rồi đây cũng sẽ thành tựu. Bóng tối của vô minh sẽ bị đẩy lùi bởi tuệ giác vô thượng của Ngài và con đường hướng đến Thánh quả của các đệ tử Ngài sẽ được nở rộ ở thế gian này. Vì thế, ngay sau khi xuất hiện, Ngài được xem nhưsư tử vương ra khỏi hang khiến các loài thú phải khiếp sợ, cũng như giáo pháp của Ngài rồi đây sẽ phủ trùm trên tất cả học thuyết. Ngài còn được xem nhưnhật nguyệt bừng tỏa xua tan đi bóng tối âm u đã phủ trùm vô số kiếp lên cuộc sống của chúng sanh, để rồi ánh sáng ấy làm hiển lộ vẻ đẹp rực rỡ của buổi bình minh tươi vui và hạnh phúc, hàng phục những tà thuyết đem lại sự đau khổ cho cuộc đời.

Như vậy, sự xuất hiện của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã mở ra một cuộc cách mạng mới. Cuộc cách mạng ấy khai triển tự tính duyên sinh, giúp cho những ai đang còn chìm đắm trong vũng bùn sanh tử, bằng đời sống tư duy vô chấp liễu ngộ thực tại tánh, sớm ly tham, ly sân, ly si ngay ở cõi đời này. Ngài ra đời vì một lý do duy nhấtđáp ứng nguyện vọng thâm sâu thầm kín đó của con người, đem tình thương hóa giải những đau khổ trong tâm tư con người; lấy bình đẳng để san bằng những bất công của xã hội, khai ngộ tuệ giác cho mọi chúng sanh như trong kinh Pháp Hoa tuyên thuyết “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Chính sự hiện thân từ lúc nhập thai, đản sanh, thành đạo cho đến giây phút trước khi nhập niết-bàn ấy của Ngài đã diễn thuyết bài pháp vô ngôn. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói cho đến sự im lặng của Ngài cũng là những bài học mang lại nhiều giá trị cho cuộc sống nhân sinh.

Những bài pháp ấy cho đến ngày nay và mai sau vẫn luôn là nền tảng tư tưởng căn bản cho mọi thời đại, cho mọi học thuyết đang tìm kiếm giải pháp để xây dựng một thế giới hòa bình, một quốc gia an lạc. Chúng được chuyển thành những pháp hành thẩm thấu trong đời sống tu tập của mỗi người. Không kể sang hèn, không kể vua chúa hay kẻ bần cùng, nếu người nào biết thực tập chuyển hóa thì người ấy có hạnh phúc, có an lạc. Người nào sống trọn vẹn tinh thầnđức Phật đã chỉ dạy thì người đó gọi là Phật tử. Đức Phậthiện thân của giác ngộ nên đạo Phật gọi là đạo giác ngộ. Vì không hiểu rõ về vấn đề này, nên nhiều người lầm lẫn cho rằng, đức Phật chúng ta là một nhà tôn giáo. Ngài cũng chỉ như những vị thần của những tôn giáo khác với những huyền thoại khó tin, khó chấp nhậnlịch sử đã tô vẽ vị giáo chủ của mình. Ngài không đứng trên lập trường như vậy “Ta không phải là Thượng đế, cũng không phải là thần thánh, cũng không phải là con người, mà Ta là Phật.” Điều đó đã minh chứng phần nào về con người và sự xuất hiện của Ngài. Do đó, chúng ta không thể nói đức Phật lịch sửcon người bình thường như những người xưa nay từng quan niệm bởi vì nếu ai cũng nhìn như vậy thì tôn giáo không còn là tôn giáo nữa. Tôn giáo có một cái nhìn và cách lý giải riêng của tôn giáo, cũng như khoa học có cái nhìn và cách lý giải riêng của khoa học. Khoa học chỉ có thể giải thích một khía cạnh nào đó của tôn giáo có thể cho là đúng mà thôi, chứ khoa học không thể giải thích toàn bộ những điều mà tôn giáo đang đề cập. Theo Phật giáo, muốn có một nhận định đúng về cuộc đời của đức Phật, chúng ta phải đặt cái nhìn trong phạm trù tương quan duyên khởi, “cái này có cái kia có, cái này không cái kia không; cái này sanh cái kia sanh, cái này diệt cái kia diệt”. Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược. Sự đản sanh của Ngài là sự đản sanh trong sự trú tâm an tịnh, hướng tâm nguyện độ sanh đem lại an vui cho mọi người.

Trong kinh Trung bộ III, số 123, kinh Vị Tằng Hữu, đức Phật dạy: “Ngài không được sinh ra từ nơi bất tịnh, lớn lên trong đau khổ và chết dần trong đau khổ.”
Còn kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới đã trình bày: “Lúc Ma-da phu nhơn sắp đản sanh Bồ-tát, ở trước mặt phu nhơn bỗng từ kim cang tế mọc lên hoa sen lớn tên là nhất thiết bửu trang nghiêm tạng. Kim-cang làm cọng, các báu làm tua, Như ý châu vương làm đài, có Phật sát vi trần số cánh. Tất cả đều bằng châu Ma-ni, lưới báu lọng báu đều che phía trên. Tất cả thiên vương cầm giữ, tất cả long vương mưa hương vũ, tất cả Dạ-xoa vương cung kính rải thiên hoa. Tất cả Càn-thát-bà vương dùng âm thanh vi diệu ca ngợi công đức của Bồ-tát thuở xưa cúng dường chư Phật. Tất cả Tu-la vương bỏ tâm kiêu mạn mà cúi đầu đảnh lễ. Tất cả Ca-lâu-la vương thòng phan báu khắp hư không. Tất cả Khẩn-na-la vương hoan hỷ chiêm ngưỡng ca ngâm khen ngợi công đức của Bồ-tát. Tất cả Ma-hầu-la vương đều hoan hỷ tán thán rải mây báu trang nghiêm cúng dường. Đây là thần biến thứ mười của Bồ-tát sắp đản sanh.
Này thiện nam tử! Vườn Lâm-tì-ni thị hiện mười thần biến như vậy rồi, sau đó Bồ-tát đản sanh như mặt nhật hiện nơi hư không, như mây lành hiện ở đỉnh núi cao, như làn chớp sáng giữa cụm mây dày, như ngọn đuốc sáng giữa đêm tối. Bấy giờ Bồ-tát từ hông bên hữu của phu nhơn mà đản sanh, thân tướng quang minh, đủ các tướng hảo.

Này thiện nam tử! Lúc đó dù hiện sơ sanh nhưng Bồ-tát đã tỏ thấu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, không đến, không đi, chẳng sanh, chẳng diệt.”
Sự đản sanh của một vị Phật không thể hiểu và giải thích như sự sanh ra của những con người bình thường. Vì chúng sanh mê muội đầu thai rồi mê muội ra đời, còn sự ra đời của đức Phật chính là sự ra đời của một bậc Phước trí song toàn, theo bi nguyện thị hiện độ sanh. Sự đản sanh của Ngài trong cuộc đời này là muốn thể hiện rõ ràng hơn chân lý của cuộc đời xưa nay vẫn như vậy, “Pháp nhĩ như thị”, “dù Như Laixuất hiện hay không xuất hiện thì pháp tánh ấy vẫn như vậy”. Pháp ấy là cội nguồn của chân lý, là sự thật, là một nơi không có dáng dấp của khổ đau hay bất hạnh, không có sự phân chia giai cấp sang hèn, “tất cả sinh ra trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn”, cho nên ai cũng bình đẳng và có thể thành Phật “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” như Ngài. Những huyền thoại ghi chép đã lưu dấu lại cho đời những thâm ý mầu nhiệm. Mỗi biểu hiện là mỗi bài pháp quý giá như “Voi trắng sáu ngà” khi vào thai mẹ với giáo lý lục độ Ba-la-mật, vừa “sanh ra biết đi” đã phá tan những tập tục cổ hữu đương thời của Ấn Độ, “Bảy bước đi” với thất thánh tài, hay câu nói bất di bất dịch “trên trời dưới trời chỉ có chân lý là tối thượng”, v.v…

Phủ phục trước ánh sáng của trí tuệlòng từ bi bao la của đức Phật, học giả Radha Krishman đã viết: “Nơi đức Phật Cù đàm, ta nhận thấy một tinh hoa toàn diện của người phương Đông. Ảnh hưởng của ngài trong tư tưởngđời sống nhân loại là một kỳ công hi hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính tôn ngài là người đã dựng lên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm sâu huyền diệu, ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí, bởi vì đứng về phương diện trí thức, đạo đức trang nghiêmtinh thần minh mẫn chắc chắn ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử.”

Cuộc đời của Ngài có nhiều giải thích khác nhau. Mục đích chung trong việc dùng ngôn từ để diễn đạt cũng chỉ làm cho mọi người rõ thêm về sự thị hiện của Ngài, và chính là làm sao đạt được sự giải thoát ngay trong hiện tại cho chính mình. Đức Phật cũng đã từng dạy: “Ta chỉ là bậc đạo sư chỉ đường”, để nói lên thể tính trong sáng nơi mỗi người, nhằm khích lệ con người không nên ỷ y nơi ngài mà hãy bằng nỗ lực tự thân vươn lên trong khả tính thực chứng của mình. Tất cả những gì Ngài còn để lại ở cuộc đời không được xây dựng trên tính cố hữu ràng buộc bắt buộc mọi người phải tuân theo, nhưng để đạt được hạnh phúc an lạc thực sự thì phải đi theo lộ trình tự chứng mà Ngài đã trải qua. Chính điểm này chúng ta thấy, sự thị hiện đản sanh của Ngài đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên ấy được duy trìtồn tại đích thực trong hiện quán của trí tuệtừ bi. Chỉ khi nào trí tuệtừ bi luôn được vận dụng trong đời sống, thì cuộc đời sẽ có một sự chuyển đổi, có sự thăng hoa tâm linh, còn không thì nó mãi mãi vẫn đắm chìm trong chuỗi chấp thủ khổ đau và bất hạnh.■

Thích Khải Tâm

Nguồn: TS Pháp Luân 50

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14146)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39715)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15313)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13928)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37332)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40061)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14641)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14312)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14831)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19215)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13796)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13831)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37260)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12674)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11760)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22545)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12510)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13062)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13112)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17267)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33247)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14835)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11047)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12455)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11959)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11935)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13131)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51264)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30411)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13124)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13331)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30681)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19365)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12478)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11843)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14763)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13194)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30686)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12726)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31900)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11782)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11750)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10427)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11563)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9660)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9990)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35401)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10148)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10097)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10046)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9659)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27802)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15496)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13683)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9845)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9693)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18321)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12044)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9572)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9694)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8714)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8916)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11482)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31734)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12335)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8828)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9442)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11938)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9668)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9076)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9104)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33245)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8432)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30606)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31227)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37121)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32254)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9934)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27098)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8450)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13012)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant