Danh hiệu của đức PhậtThích-ca Mâu-ni đọc theo âm Phạn và Pāli tên là Sakyamuni.
Hán phiên âm là Thích-ca Văn Phật và dịch Thích-ca là Năng nhân, Năng nhẫn, Năng tịch, Tịch mặc, Năng mãn, v.v…
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiệnđời sốngan tịnh; Tịch mặc là có khả năng yên tịnh từ trong ra
ngoài; Năng mãn có khả năng thành tựuviên mãn các hạnh.
Mâu-ni dịch là Thánh nhân, Hiền nhân, Đạo sĩ, Ẩn sĩ, hay Tịch mặc… nghĩa là bậc
Thánh nhân, bậc Hiền triết, bậc Minh triết, bậc Đạo sĩ, bậc Ẩn sĩ… có khả năng sống đời thanh tịnh và giải thoát.
Như vậy, Thích-ca Mâu-ni là đấng có đời sốngan tịnh, đời sống có kham nhẫn, tràn đầy sự thương yêu, xuất thân từ họ Thích-ca (Sakya). Và Thích-ca có nghĩa là
dòng họ có đầy đủ khả năngtự lực và sáng tạo.
Tên của Ngài đọc theo âm Pāli là Siddhattha và Phạn là Sarvasiddhārtha.
Hán phiên âm là Tất-đạt-đa-la-tha, Tất-đạt-đa, Sĩ-đạt-ta, Tất-đạt… và dịch là Nhất
Thế Nghĩa Thành, nghĩa là thành tựu tất cả chân nghĩa; hoặc dịch là Nhất Thế Sự Thành, nghĩa là thành tựu hết thảy sự nghiệp; hoặc dịch là Thành Lợi, nghĩa là thành tựu hết thảy lợi ích; hoặc dịch là Nghiêm Sự, nghĩa là chiêm nghiệm để thấy rõ nghĩa lýchân thật.
Thân phụ là Suddhodana, Hán dịch là Tịnh Phạn, nghĩa là vị có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho đời; mẹ là Maha-Māya, Hán dịch là Đại Mộng, do trong chiêm
bao thấy được mộng lành. Dòng họ Thích-ca thuộc giai cấp Sát-đế-lợi (Khattiya), kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Ngài xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ của nhân loại 100 tuổi.
Thị hiện đản sanh:
Hoàng hậu Māya năm 45 tuổi, một hôm nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên trờiđi xuống và giữa không trung có những làn
sóng nhạc vang lừng, quyện lại với những lời chúc tụng của chư thiên xa
vọng không ngớt.
Voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của voi trắng như tuyết, ngà của voi có quấn một đóa sen hồng. Voi đến gần và đưa đóa sen hồng chạm vào người bà. Trong giấc mộng, bà thấy thân tâm
sảng khoái lạ kỳ.
Tỉnh dậy bà đem giấc mộng ấy kể lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Ngay sáng hôm ấy, vua mời các nhà đoán mộng tại kinh đô Ca-tỳ-la-vệ đến để giải mộng.
Các nhà đoán mộng đều cho rằng: “Đây là một giấc mộng lành chắc chắn Hoàng hậu sẽ thụ thai, và sẽ sinh Hoàng tử xuất chúng”.
Nghe các nhà đoán mộng như thế, vua Tịnh Phạnhết sứcvui mừng, vua hạ lệnh đem lương thực, tài sản trong kho ra chẩn phát cho dân nghèo và những người tật bệnh, ân xá lao tù. Nhân dân xứ Ca-tỳ-la-vệ đều thấm nhuần ơn mưa mốc.
Gần một năm kể từ ngày nằm mộng, hoàng hậu Māya về vương quốc Koliya quê hương của bà để sinh nở. Trên đường từ Ca-tỳ-la-vệ về Ramagama của vương quốc Koliya quê của bà để sinh nở, bà đã ghé nghỉ tại vườn Lâm-tì-ni (Lumbini).
Trong
vườn, muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang hót ca. Một sáng mai đẹp trời, bà thấy hoa Vô ưu đang nở đầy cành, hương và sắc đẹp đẽ, liền bước
tới đưa tay nắm lấy cành hoa, thì Thái tử cũng liền thị hiện ngay lúc đó.
Bấy giờ là ngày trăng tròn tháng Vesākha, năm 623 trước Tây lịch.
Khi ra đời Thái tử đứng thẳng nhìn vào hông phải của mẹ mà nói:
“Ngã thử thân hình Tùng kim nhật hậu, Bất phục cánh thọ Ư mẫu hiếp trung Bất nhập thai ngọa Thử thị ư ngã Tối vị
hậu thân Ngã đương tác Phật”.1
Nghĩa là:
Thân này của con Từ nay về sau Không còn trở lại Vào nằm trong thai Ở
trong hông mẹ Thân nầy của con Là thân sau cùng Con sẽ thành Phật.
Rồi, Thái tử nhìn bốn phương, mỗi phương đi bảy bước đều có
hoa sen lớn xuất hiện để đỡ chân Ngài. Trước hết nhìn về phương Đông, Thái tử nói:
“Chánh ngữ chánh ngôn, Thế gian chi trung Ngã vi tối thắng, Ngã tùng kim nhật Sanh phần dĩ tận”.2
Nghĩa là:
Lời nóichính xác, Ở trong thế gian, Tôi là tối thắng, Tôi
từ hôm nay Chấm dứt sinh tử.
Chi tiết nầy, lại được ghi chép cụ thể hơn trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, rằng:
“Khi sinh ra Ngài bước đi về phương Đông bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân; lúc
bấy giờ Ngài không có chút sợ hãi và nói mạch lạc như sau:
Ngã đắc nhất thiếtthiện pháp Đương vị chúng sanh thuyết chi”.
Nghĩa
là: Tôi sẽ thành tựu hết thảy thiện pháp và sẽ vì chúng sanh mà nói.
-Ngài
lại bước đi bảy bước về phương Nam, rồi lại nói:
“Ngã ư nhân thiên Ứng thọ cúng dường”.
Nghĩa là: Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường của chư Thiên và loài ngời.
Ở trong thế gian Tôi là tối tôn Tôi là tối thắng Thân
nầy của tôi Là thân cuối cùng Chấm dứt sinh tử.
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Bắc và nói:
“Ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung, vi vô thượng thượng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ ở nơi hết thảy chúng sanh, làm bậc Vô thượng thượng.
Ngài lại đi bảy bước nhìn xuống Hạ phương và nói:
“Ngã đương hàng phục Nhất thiếtma quân Hựu diệt địa ngục Chi mãnh hỏa đảnh Sở hữukhổ cụ Thi
đại pháp vân Vũ đại pháp vũ Đương linh chúng sanh Tận thọ an lạc”.
Nghĩa là:
Tôi sẽ hàng phục Hết thảy ma quân Hủy
diệt khổ cụ Dập tắt lửa dữ Ở nơi địa ngục Giăng mây pháp lớn Tuôn
mưa pháp lớn Khiến cho chúng sanh Tận hưởng an lạc.
Ngài lại đi bảy bước nhìn lên Thượng phương và nói:
“Ngã đương vị nhất
thiết chúng sanh, chi sở chiêm ngưỡng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ vì hết thảy chúng sanh làm nơi chiêm ngưỡng.
Lúc Ngài nói vừa xong, âm thanh của Ngài vang khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.3
Năm ngày sau, vua Tịnh Phạn làm lễ quán đảnh và đặt tên Thái tử là Tất-đạt-đa và mời đạo sĩ A-tư-đà (Asitakaladevala) đến đoán tướng. Đạo sĩ nói: “Thái tử có 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, nếu ở đời thì Thái
tử sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương, dùng đức hạnh để trị vì thiên hạ. Nếu xuất gia, thì Thái tửtrở thành Bậc toàn giác đem lại sự hạnh phúcan lạc cho đời”. Niềm tin, hiểu biết và sự cảm nhận:
Việc
chuyển tải năng lượng từ một không gian nầy đến một không gian khác bằng tự thân của những năng lượng hay bằng những dụng cụ khoa học vật lý
đối với trí thức của con người ngày nay không còn là điều bí hiểm.
Cũng
vậy, việc đức Phật Thích-ca ra đời cách đây 26 thế kỷ, đi bảy bước trên
bảy hoa sen và tuyên bố những câu như đã trích dẫn ở trên đã làm cho nhiều nhà trí thức tự đặt lại câu hỏi, những sự kiện ấy có thực sự xảy ra không hay chỉ là bịa đặt, huyền thoại và bí hiểm?
Kinh Hoa Nghiêm còn nói rằng, khi đức Thích-ca thị hiện xuống thế giới Ta-bà nầy,
nằm ở trong thai mẫu, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười
phương và vô số Bồ-tát vào ra ở trong thai mẫu của Ngài để nghe Ngài thuyết pháp, ấy lại là một điều khó tin khó hiểu đối với chúng ta nữa, lại càng huyền thoại và bí hiểm hơn nữa?
Và kinh Pháp Hoa lại nói, không phải đức Thích-ca mới thành Phật từ đời nầy, mà Ngài đã thành
Phậttừ vô lượng kiếp về trước và đã từng giáo hóavô lượng, vô số, vô biênchúng sanh. Nên sự có mặt của Ngài cách đây hơn 26 thế kỷ, chỉ là sự tái diễn. Sự tái diễnliên tục của bản nguyệnTừ bi. Và Ngài vẫn nghiễm nhiên còn đó mà mắt thườngchúng ta không thể nào thấy được.
Những
điều ấy, kinh điển đã ghi lại cho chúng ta đọc, làm cho ta như có vẻ khó hiểu và huyền thoại. Nhưng, chẳng khó hiểu và huyền thoại chút nào, khi ta có một chút tuệ giác và tâm nguyện.
Tại sao? Trước hết, ta
nhìn nhận đức Phật là một con người như bất cứ con người nào ở trên trái đất nầy, nên những gì mà đời sốngcon người biểu hiện, thì đối với những loại vật thấp kém không thể nào hiểu nổi, và đối với thế giới loài
vật, thì mọi biểu hiện của thế giớicon người đối với chúng là không thể nghĩ bàn, là cực kỳ huyền thoại, bí hiểm. Nhưng những hành động biểu
hiện giữa con người với con người, chẳng có gì là huyền thoại cả, chúng
là một sự kiện biểu hiện tự nhiên.
Cũng vậy, đức Phật Thích-ca xuất hiện giữa thế giớicon người với hình thứccon người, nhưng lại khác người và siêu việtcon người. Tại sao? Vì con ngườixuất hiện trong thế giớicon người bằng nghiệp lực và bằng quả báo làm người; nên sự xuất hiện ấy hoàn toànthụ động, không có chủ quyền và tự do, bị trói
buộc ở trong sanh, già, bệnh, chết.
Trái lại, đức Phậtxuất hiện
giữa thế giớiloài người bằng hình tướngcon người, nhưng không phải bằng nghiệp lực mà bằng nguyện lực, không phải bằng khát ái mà bằng đại từ bi, không phải bằng quả báosinh tử mà bằng phước báo và với tư cách của một vị Giác ngộ, nên Ngài hoàn toàn có tự do và có chủ quyền khi nhập thai, trú thai và xuất thai.
Ngài nhập thai, trú thai và xuất thai đều là với tư cách của một vị Giác ngộ, không bị ràng buộc bởi
những hệ lụysinh tử, nên khi nhập thai Ngài có vô số Bồ-tát tiễn đưa, nhạc trời ngân lên ca ngợi; khi Ngài ở trong thai, có vô số Bồ-tát vào ra thai tạng để nghe Pháp và luận bànChánh pháp và khi Ngài xuất thai, thì có chư Thiên tung hoa và hoa sen đỡ chân, đi bảy bước và có những lời tuyên bố xác quyết tư cáchgiác ngộ của mình, như:
“Ở trong thế gian Tôi là tối tôn, Tôi là tối thắng Thân nầy của tôi Là
thân cuối cùng Không còn sinh tử”.
Lời tuyên bố như vậy và phong thái biểu hiện như vậy của Ngài, nếu ta nghe lời ấy bằng tâm Bồ-tát và bằng tâm Phật, thì chẳng có gì khó hiểu. Nếu ta đưa đôi mắt Bồ-tát hay Phật mà nhìn, thì chẳng có gì là khó tin, chẳng có gì là bịa đặt và huyền thoại; nhưng nếu ta đem tâm phàm phu mà nghe, lấy mắt thịt mà nhìn, thì ta chẳng nghe và chẳng thấy cái gì, nên tất cả đều là huyền
thoại và bí hiểm.
Khoa học ngày nay đã khám phá ra những điều kỳ
lạ, nên việc kinh Hoa Nghiêm nói, khi đức Phật Thích-ca đang ở trong thai mẹ, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười phương, và vô
số Bồ-tát khắp cả mười phương đều đến nhập thai mỗi ngày để nghe đức Thích-ca thuyết pháp là điều mà ngày nay với cách nhìn khoa học, ta có thể tin và hiểu được bằng những phương phápsiêu âm, hay bằng những phương phápsử dụngquang tuyến X, hay những làn sóng điện của truyền hình, truyền thanh, v.v…
Lại nữa, đức Thích-ca đến và nằm ở trong thai mẹ bằng năng lượng của tuệ giác và đại nguyệnTừ bi, nên những gì ô nhiễm trong thai mẹ không làm chướng ngại và ô nhiễm được Ngài.
Nằm ở trong thai mẹ mà đức Thích-ca vẫn phóng ánh sáng của năng lượngtuệ giác và đại nguyện để tiếp xúc với năng lượngtuệ giác và
đại nguyệntừ bi của vô số Bồ-tát khắp cả mười phương. Đồng thời mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, vô số Bồ-tát khắp cả mười phương đều sử dụng ánh sáng bằng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của mình để tiếp xúc với ánh sáng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của đức
Thích-ca đang có mặt và hoạt động ở trong mẫu thai là điều mà chúng ta có thể hiểu và thấy được bằng cái nghe và cái thấy, bằng tai mắt khoa học công nghệ ngày nay.
Do đó, việc nhập thai, trụ thai và xuất thai của đức Thích-ca với những hiện tượng kỳ lạ, khó hiểu, khó tin so với sự suy nghĩ và cách nhìn bằng con mắt của con người, lại là những sinh hoạtthực tế trong truyền thốngvăn hóa, đạo đức, tâm linh của thế giớibản nguyện; ấy là thế giới của những vị Bồ-tát chỉ còn một đời sau cùng thành Phật. Các Ngài đều đã, đang và sẽ nhập thai như vậy; đều đã, đang và sẽ trú thai như vậy và đã, đang và sẽ xuất thai như vậy.
Điều
ấy đã, đang và sẽ diễn ra như vậy là như vậy, ta có cảm nhận được thì cảm nhận, ta có tin được thì cứ tin; nếu chưa cảm nhận được, chưa tin được thì để đó, đừng vội vàngbác bỏ, hay đừng vội vàngkết luận. Cũng chỉ là một sự kiện xảy ra, ta phải đứng từ nhiều góc độ để nhìn nhận, và
cảm nhận để tin hiểu, ta mới có thể thẩm thấu được bản chất của vấn đề.
Nên,
Phật Đản PL.2550 lại trở về với chúng ta, chúng ta lại thực tập hạnh không vội tin và không vội phỉ báng hay kết luận khi thấy những gì đang xảy ra trong ta và xung quanhchúng ta.
Chúng ta phải thực sự sâu
lắng và trầm tĩnh, để chúng ta dâng hiến đức tính ấy lên cúng dường ngày Đản Sanh đức Từ Phụ của chúng ta và muôn loài.
Chú thích: 1. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 7, tr. 687a, Đại Chánh 3. 2.
Kinh đã dẫn, 687b 3. Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh 3, tr. 553ab, Đại Chánh 3.
Đức Phật Thích Ca Mâu Nixuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vịthái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giớichư thiên và các loài khác...
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sốngphi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biết và thông cảm.
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn nănsám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lựctu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
Ai đã một lầnhiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
Thân thể có ảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cốchấp trì câu danh hiệu Phật...
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độgiải thoát thật sự...
Thể tánh của đức PhậtA Di Đà là vô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lýđại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạngvô lượng, trí tuệvô cùng, công đứcvô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượngcông đức).
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyếtvô lượngpháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng tháitự chứng tự nội...
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám pháthực tướngVÔ NGÃ của chính mình. Nếu khônghiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
"Đây là con đườngduy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứtlo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Thực hành thiền trong Đạo Phậtrốt ráo là để Thực Nghiệm sự thậtVÔ NGÃ mà đức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
Đức Phậtkhám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sảntinh thần...
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràngtrong sáng.
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường cóthói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
Hình tượngĐức PhậtDi Lặchiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửatỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượngtình thương.
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộcủa riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phutục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệtxinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đời là ảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốnchúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạthân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
Đại lựcĐộc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
Kinh điểnPhật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phậtliên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết địnhvận mệnh của mình và gia đình...
Phật giáo cho rằng, sự vận hànhbiến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởngtương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
Các bậc thầy Mật tôngtuyên bố rằng, người nào khéo sử dụngnăng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soáthoàn toàntinh thần để tập trung tư tưởng...
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thànhthông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lựctu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
Tu tậppháp môn P’howa, tức là pháp mônchuyển dithần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tậptâm linh của mình...
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữvui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhanđoan trang...
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủtrầm tĩnhsáng suốt...
Thật ra sanh tử là do tâm thứcvô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không không có hoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
Phật quả đòi hỏi những thành tựuphi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễquán đảnh.
Sở dĩchúng ta mãi trôi lăn trong luân hồisinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
Không có một sự thực hànhNiệm Phậtchân chính, không ai có thể trung thựcnhận ra tính chấp ngãvị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tạisinh tử.
Nếu không có cái ta ảo tưởngxen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâmthọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
Vì lòng thương xótchúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tônđặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.