Danh hiệu của đức PhậtThích-ca Mâu-ni đọc theo âm Phạn và Pāli tên là Sakyamuni.
Hán phiên âm là Thích-ca Văn Phật và dịch Thích-ca là Năng nhân, Năng nhẫn, Năng tịch, Tịch mặc, Năng mãn, v.v…
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiệnđời sốngan tịnh; Tịch mặc là có khả năng yên tịnh từ trong ra
ngoài; Năng mãn có khả năng thành tựuviên mãn các hạnh.
Mâu-ni dịch là Thánh nhân, Hiền nhân, Đạo sĩ, Ẩn sĩ, hay Tịch mặc… nghĩa là bậc
Thánh nhân, bậc Hiền triết, bậc Minh triết, bậc Đạo sĩ, bậc Ẩn sĩ… có khả năng sống đời thanh tịnh và giải thoát.
Như vậy, Thích-ca Mâu-ni là đấng có đời sốngan tịnh, đời sống có kham nhẫn, tràn đầy sự thương yêu, xuất thân từ họ Thích-ca (Sakya). Và Thích-ca có nghĩa là
dòng họ có đầy đủ khả năngtự lực và sáng tạo.
Tên của Ngài đọc theo âm Pāli là Siddhattha và Phạn là Sarvasiddhārtha.
Hán phiên âm là Tất-đạt-đa-la-tha, Tất-đạt-đa, Sĩ-đạt-ta, Tất-đạt… và dịch là Nhất
Thế Nghĩa Thành, nghĩa là thành tựu tất cả chân nghĩa; hoặc dịch là Nhất Thế Sự Thành, nghĩa là thành tựu hết thảy sự nghiệp; hoặc dịch là Thành Lợi, nghĩa là thành tựu hết thảy lợi ích; hoặc dịch là Nghiêm Sự, nghĩa là chiêm nghiệm để thấy rõ nghĩa lýchân thật.
Thân phụ là Suddhodana, Hán dịch là Tịnh Phạn, nghĩa là vị có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho đời; mẹ là Maha-Māya, Hán dịch là Đại Mộng, do trong chiêm
bao thấy được mộng lành. Dòng họ Thích-ca thuộc giai cấp Sát-đế-lợi (Khattiya), kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Ngài xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ của nhân loại 100 tuổi.
Thị hiện đản sanh:
Hoàng hậu Māya năm 45 tuổi, một hôm nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên trờiđi xuống và giữa không trung có những làn
sóng nhạc vang lừng, quyện lại với những lời chúc tụng của chư thiên xa
vọng không ngớt.
Voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của voi trắng như tuyết, ngà của voi có quấn một đóa sen hồng. Voi đến gần và đưa đóa sen hồng chạm vào người bà. Trong giấc mộng, bà thấy thân tâm
sảng khoái lạ kỳ.
Tỉnh dậy bà đem giấc mộng ấy kể lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Ngay sáng hôm ấy, vua mời các nhà đoán mộng tại kinh đô Ca-tỳ-la-vệ đến để giải mộng.
Các nhà đoán mộng đều cho rằng: “Đây là một giấc mộng lành chắc chắn Hoàng hậu sẽ thụ thai, và sẽ sinh Hoàng tử xuất chúng”.
Nghe các nhà đoán mộng như thế, vua Tịnh Phạnhết sứcvui mừng, vua hạ lệnh đem lương thực, tài sản trong kho ra chẩn phát cho dân nghèo và những người tật bệnh, ân xá lao tù. Nhân dân xứ Ca-tỳ-la-vệ đều thấm nhuần ơn mưa mốc.
Gần một năm kể từ ngày nằm mộng, hoàng hậu Māya về vương quốc Koliya quê hương của bà để sinh nở. Trên đường từ Ca-tỳ-la-vệ về Ramagama của vương quốc Koliya quê của bà để sinh nở, bà đã ghé nghỉ tại vườn Lâm-tì-ni (Lumbini).
Trong
vườn, muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang hót ca. Một sáng mai đẹp trời, bà thấy hoa Vô ưu đang nở đầy cành, hương và sắc đẹp đẽ, liền bước
tới đưa tay nắm lấy cành hoa, thì Thái tử cũng liền thị hiện ngay lúc đó.
Bấy giờ là ngày trăng tròn tháng Vesākha, năm 623 trước Tây lịch.
Khi ra đời Thái tử đứng thẳng nhìn vào hông phải của mẹ mà nói:
“Ngã thử thân hình Tùng kim nhật hậu, Bất phục cánh thọ Ư mẫu hiếp trung Bất nhập thai ngọa Thử thị ư ngã Tối vị
hậu thân Ngã đương tác Phật”.1
Nghĩa là:
Thân này của con Từ nay về sau Không còn trở lại Vào nằm trong thai Ở
trong hông mẹ Thân nầy của con Là thân sau cùng Con sẽ thành Phật.
Rồi, Thái tử nhìn bốn phương, mỗi phương đi bảy bước đều có
hoa sen lớn xuất hiện để đỡ chân Ngài. Trước hết nhìn về phương Đông, Thái tử nói:
“Chánh ngữ chánh ngôn, Thế gian chi trung Ngã vi tối thắng, Ngã tùng kim nhật Sanh phần dĩ tận”.2
Nghĩa là:
Lời nóichính xác, Ở trong thế gian, Tôi là tối thắng, Tôi
từ hôm nay Chấm dứt sinh tử.
Chi tiết nầy, lại được ghi chép cụ thể hơn trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, rằng:
“Khi sinh ra Ngài bước đi về phương Đông bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân; lúc
bấy giờ Ngài không có chút sợ hãi và nói mạch lạc như sau:
Ngã đắc nhất thiếtthiện pháp Đương vị chúng sanh thuyết chi”.
Nghĩa
là: Tôi sẽ thành tựu hết thảy thiện pháp và sẽ vì chúng sanh mà nói.
-Ngài
lại bước đi bảy bước về phương Nam, rồi lại nói:
“Ngã ư nhân thiên Ứng thọ cúng dường”.
Nghĩa là: Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường của chư Thiên và loài ngời.
Ở trong thế gian Tôi là tối tôn Tôi là tối thắng Thân
nầy của tôi Là thân cuối cùng Chấm dứt sinh tử.
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Bắc và nói:
“Ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung, vi vô thượng thượng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ ở nơi hết thảy chúng sanh, làm bậc Vô thượng thượng.
Ngài lại đi bảy bước nhìn xuống Hạ phương và nói:
“Ngã đương hàng phục Nhất thiếtma quân Hựu diệt địa ngục Chi mãnh hỏa đảnh Sở hữukhổ cụ Thi
đại pháp vân Vũ đại pháp vũ Đương linh chúng sanh Tận thọ an lạc”.
Nghĩa là:
Tôi sẽ hàng phục Hết thảy ma quân Hủy
diệt khổ cụ Dập tắt lửa dữ Ở nơi địa ngục Giăng mây pháp lớn Tuôn
mưa pháp lớn Khiến cho chúng sanh Tận hưởng an lạc.
Ngài lại đi bảy bước nhìn lên Thượng phương và nói:
“Ngã đương vị nhất
thiết chúng sanh, chi sở chiêm ngưỡng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ vì hết thảy chúng sanh làm nơi chiêm ngưỡng.
Lúc Ngài nói vừa xong, âm thanh của Ngài vang khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.3
Năm ngày sau, vua Tịnh Phạn làm lễ quán đảnh và đặt tên Thái tử là Tất-đạt-đa và mời đạo sĩ A-tư-đà (Asitakaladevala) đến đoán tướng. Đạo sĩ nói: “Thái tử có 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, nếu ở đời thì Thái
tử sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương, dùng đức hạnh để trị vì thiên hạ. Nếu xuất gia, thì Thái tửtrở thành Bậc toàn giác đem lại sự hạnh phúcan lạc cho đời”. Niềm tin, hiểu biết và sự cảm nhận:
Việc
chuyển tải năng lượng từ một không gian nầy đến một không gian khác bằng tự thân của những năng lượng hay bằng những dụng cụ khoa học vật lý
đối với trí thức của con người ngày nay không còn là điều bí hiểm.
Cũng
vậy, việc đức Phật Thích-ca ra đời cách đây 26 thế kỷ, đi bảy bước trên
bảy hoa sen và tuyên bố những câu như đã trích dẫn ở trên đã làm cho nhiều nhà trí thức tự đặt lại câu hỏi, những sự kiện ấy có thực sự xảy ra không hay chỉ là bịa đặt, huyền thoại và bí hiểm?
Kinh Hoa Nghiêm còn nói rằng, khi đức Thích-ca thị hiện xuống thế giới Ta-bà nầy,
nằm ở trong thai mẫu, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười
phương và vô số Bồ-tát vào ra ở trong thai mẫu của Ngài để nghe Ngài thuyết pháp, ấy lại là một điều khó tin khó hiểu đối với chúng ta nữa, lại càng huyền thoại và bí hiểm hơn nữa?
Và kinh Pháp Hoa lại nói, không phải đức Thích-ca mới thành Phật từ đời nầy, mà Ngài đã thành
Phậttừ vô lượng kiếp về trước và đã từng giáo hóavô lượng, vô số, vô biênchúng sanh. Nên sự có mặt của Ngài cách đây hơn 26 thế kỷ, chỉ là sự tái diễn. Sự tái diễnliên tục của bản nguyệnTừ bi. Và Ngài vẫn nghiễm nhiên còn đó mà mắt thườngchúng ta không thể nào thấy được.
Những
điều ấy, kinh điển đã ghi lại cho chúng ta đọc, làm cho ta như có vẻ khó hiểu và huyền thoại. Nhưng, chẳng khó hiểu và huyền thoại chút nào, khi ta có một chút tuệ giác và tâm nguyện.
Tại sao? Trước hết, ta
nhìn nhận đức Phật là một con người như bất cứ con người nào ở trên trái đất nầy, nên những gì mà đời sốngcon người biểu hiện, thì đối với những loại vật thấp kém không thể nào hiểu nổi, và đối với thế giới loài
vật, thì mọi biểu hiện của thế giớicon người đối với chúng là không thể nghĩ bàn, là cực kỳ huyền thoại, bí hiểm. Nhưng những hành động biểu
hiện giữa con người với con người, chẳng có gì là huyền thoại cả, chúng
là một sự kiện biểu hiện tự nhiên.
Cũng vậy, đức Phật Thích-ca xuất hiện giữa thế giớicon người với hình thứccon người, nhưng lại khác người và siêu việtcon người. Tại sao? Vì con ngườixuất hiện trong thế giớicon người bằng nghiệp lực và bằng quả báo làm người; nên sự xuất hiện ấy hoàn toànthụ động, không có chủ quyền và tự do, bị trói
buộc ở trong sanh, già, bệnh, chết.
Trái lại, đức Phậtxuất hiện
giữa thế giớiloài người bằng hình tướngcon người, nhưng không phải bằng nghiệp lực mà bằng nguyện lực, không phải bằng khát ái mà bằng đại từ bi, không phải bằng quả báosinh tử mà bằng phước báo và với tư cách của một vị Giác ngộ, nên Ngài hoàn toàn có tự do và có chủ quyền khi nhập thai, trú thai và xuất thai.
Ngài nhập thai, trú thai và xuất thai đều là với tư cách của một vị Giác ngộ, không bị ràng buộc bởi
những hệ lụysinh tử, nên khi nhập thai Ngài có vô số Bồ-tát tiễn đưa, nhạc trời ngân lên ca ngợi; khi Ngài ở trong thai, có vô số Bồ-tát vào ra thai tạng để nghe Pháp và luận bànChánh pháp và khi Ngài xuất thai, thì có chư Thiên tung hoa và hoa sen đỡ chân, đi bảy bước và có những lời tuyên bố xác quyết tư cáchgiác ngộ của mình, như:
“Ở trong thế gian Tôi là tối tôn, Tôi là tối thắng Thân nầy của tôi Là
thân cuối cùng Không còn sinh tử”.
Lời tuyên bố như vậy và phong thái biểu hiện như vậy của Ngài, nếu ta nghe lời ấy bằng tâm Bồ-tát và bằng tâm Phật, thì chẳng có gì khó hiểu. Nếu ta đưa đôi mắt Bồ-tát hay Phật mà nhìn, thì chẳng có gì là khó tin, chẳng có gì là bịa đặt và huyền thoại; nhưng nếu ta đem tâm phàm phu mà nghe, lấy mắt thịt mà nhìn, thì ta chẳng nghe và chẳng thấy cái gì, nên tất cả đều là huyền
thoại và bí hiểm.
Khoa học ngày nay đã khám phá ra những điều kỳ
lạ, nên việc kinh Hoa Nghiêm nói, khi đức Phật Thích-ca đang ở trong thai mẹ, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười phương, và vô
số Bồ-tát khắp cả mười phương đều đến nhập thai mỗi ngày để nghe đức Thích-ca thuyết pháp là điều mà ngày nay với cách nhìn khoa học, ta có thể tin và hiểu được bằng những phương phápsiêu âm, hay bằng những phương phápsử dụngquang tuyến X, hay những làn sóng điện của truyền hình, truyền thanh, v.v…
Lại nữa, đức Thích-ca đến và nằm ở trong thai mẹ bằng năng lượng của tuệ giác và đại nguyệnTừ bi, nên những gì ô nhiễm trong thai mẹ không làm chướng ngại và ô nhiễm được Ngài.
Nằm ở trong thai mẹ mà đức Thích-ca vẫn phóng ánh sáng của năng lượngtuệ giác và đại nguyện để tiếp xúc với năng lượngtuệ giác và
đại nguyệntừ bi của vô số Bồ-tát khắp cả mười phương. Đồng thời mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, vô số Bồ-tát khắp cả mười phương đều sử dụng ánh sáng bằng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của mình để tiếp xúc với ánh sáng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của đức
Thích-ca đang có mặt và hoạt động ở trong mẫu thai là điều mà chúng ta có thể hiểu và thấy được bằng cái nghe và cái thấy, bằng tai mắt khoa học công nghệ ngày nay.
Do đó, việc nhập thai, trụ thai và xuất thai của đức Thích-ca với những hiện tượng kỳ lạ, khó hiểu, khó tin so với sự suy nghĩ và cách nhìn bằng con mắt của con người, lại là những sinh hoạtthực tế trong truyền thốngvăn hóa, đạo đức, tâm linh của thế giớibản nguyện; ấy là thế giới của những vị Bồ-tát chỉ còn một đời sau cùng thành Phật. Các Ngài đều đã, đang và sẽ nhập thai như vậy; đều đã, đang và sẽ trú thai như vậy và đã, đang và sẽ xuất thai như vậy.
Điều
ấy đã, đang và sẽ diễn ra như vậy là như vậy, ta có cảm nhận được thì cảm nhận, ta có tin được thì cứ tin; nếu chưa cảm nhận được, chưa tin được thì để đó, đừng vội vàngbác bỏ, hay đừng vội vàngkết luận. Cũng chỉ là một sự kiện xảy ra, ta phải đứng từ nhiều góc độ để nhìn nhận, và
cảm nhận để tin hiểu, ta mới có thể thẩm thấu được bản chất của vấn đề.
Nên,
Phật Đản PL.2550 lại trở về với chúng ta, chúng ta lại thực tập hạnh không vội tin và không vội phỉ báng hay kết luận khi thấy những gì đang xảy ra trong ta và xung quanhchúng ta.
Chúng ta phải thực sự sâu
lắng và trầm tĩnh, để chúng ta dâng hiến đức tính ấy lên cúng dường ngày Đản Sanh đức Từ Phụ của chúng ta và muôn loài.
Chú thích: 1. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 7, tr. 687a, Đại Chánh 3. 2.
Kinh đã dẫn, 687b 3. Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh 3, tr. 553ab, Đại Chánh 3.
Bổn sư, bậc quý báu và tốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăngnhư Phápkiến lậpđạo tràng...
Tự TánhDi Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phậttín ngưỡng, tâm linh và pháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnhlý tưởng cũng thuộc phạm vitín ngưỡng...
Sự thật là chúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý dohợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thân và pháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Tôi có một số kinh nghiệmvững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiêntâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theonguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thểvật lý và tâm thức.
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sống có ý nghĩa là không tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo phápĐức Phật ra ba thời kỳchuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thốngĐại thừa. Long Thọtiếp nối và trao truyền những giáo huấnthậm thâmvi diệu của tính không...
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyêntranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lực và tha lực. Tự lực nói đến phương phápchúng tathực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâmchúng ta.
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõiĐạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tátQuan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệm và tâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hậnhay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúctiêu cực.
Cuộc cách mạngthực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thươngtuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tậphợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
Muốn loại bỏTham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lònghiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kínhSư trưởng là đạo lý của trời đất.
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếucha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cảivật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tinchân chính...
Chết là một phần của đời sốngchúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng tatốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sưlỗi lạcnhất thế kỷ của Thái Lan về pháp mônThiền Minh Sát.
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản nănghiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinhTrai đànBạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọiđơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giớibao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trịtâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫn và trí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thươngbao la, là sự hy sinh bất tận...
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thànhthói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiênthăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
Ân cha, nghĩa mẹ quả thậtbao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thương và hiểu biết.
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sống là thời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sốngtiếp theo.
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quảA La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ TátMục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
Thiện tri thức! Tâm lượngquảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích NữTrí Hải dịch
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài ngườimà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.