Danh hiệu của đức PhậtThích-ca Mâu-ni đọc theo âm Phạn và Pāli tên là Sakyamuni.
Hán phiên âm là Thích-ca Văn Phật và dịch Thích-ca là Năng nhân, Năng nhẫn, Năng tịch, Tịch mặc, Năng mãn, v.v…
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiệnđời sốngan tịnh; Tịch mặc là có khả năng yên tịnh từ trong ra
ngoài; Năng mãn có khả năng thành tựuviên mãn các hạnh.
Mâu-ni dịch là Thánh nhân, Hiền nhân, Đạo sĩ, Ẩn sĩ, hay Tịch mặc… nghĩa là bậc
Thánh nhân, bậc Hiền triết, bậc Minh triết, bậc Đạo sĩ, bậc Ẩn sĩ… có khả năng sống đời thanh tịnh và giải thoát.
Như vậy, Thích-ca Mâu-ni là đấng có đời sốngan tịnh, đời sống có kham nhẫn, tràn đầy sự thương yêu, xuất thân từ họ Thích-ca (Sakya). Và Thích-ca có nghĩa là
dòng họ có đầy đủ khả năngtự lực và sáng tạo.
Tên của Ngài đọc theo âm Pāli là Siddhattha và Phạn là Sarvasiddhārtha.
Hán phiên âm là Tất-đạt-đa-la-tha, Tất-đạt-đa, Sĩ-đạt-ta, Tất-đạt… và dịch là Nhất
Thế Nghĩa Thành, nghĩa là thành tựu tất cả chân nghĩa; hoặc dịch là Nhất Thế Sự Thành, nghĩa là thành tựu hết thảy sự nghiệp; hoặc dịch là Thành Lợi, nghĩa là thành tựu hết thảy lợi ích; hoặc dịch là Nghiêm Sự, nghĩa là chiêm nghiệm để thấy rõ nghĩa lýchân thật.
Thân phụ là Suddhodana, Hán dịch là Tịnh Phạn, nghĩa là vị có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho đời; mẹ là Maha-Māya, Hán dịch là Đại Mộng, do trong chiêm
bao thấy được mộng lành. Dòng họ Thích-ca thuộc giai cấp Sát-đế-lợi (Khattiya), kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Ngài xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ của nhân loại 100 tuổi.
Thị hiện đản sanh:
Hoàng hậu Māya năm 45 tuổi, một hôm nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên trờiđi xuống và giữa không trung có những làn
sóng nhạc vang lừng, quyện lại với những lời chúc tụng của chư thiên xa
vọng không ngớt.
Voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của voi trắng như tuyết, ngà của voi có quấn một đóa sen hồng. Voi đến gần và đưa đóa sen hồng chạm vào người bà. Trong giấc mộng, bà thấy thân tâm
sảng khoái lạ kỳ.
Tỉnh dậy bà đem giấc mộng ấy kể lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Ngay sáng hôm ấy, vua mời các nhà đoán mộng tại kinh đô Ca-tỳ-la-vệ đến để giải mộng.
Các nhà đoán mộng đều cho rằng: “Đây là một giấc mộng lành chắc chắn Hoàng hậu sẽ thụ thai, và sẽ sinh Hoàng tử xuất chúng”.
Nghe các nhà đoán mộng như thế, vua Tịnh Phạnhết sứcvui mừng, vua hạ lệnh đem lương thực, tài sản trong kho ra chẩn phát cho dân nghèo và những người tật bệnh, ân xá lao tù. Nhân dân xứ Ca-tỳ-la-vệ đều thấm nhuần ơn mưa mốc.
Gần một năm kể từ ngày nằm mộng, hoàng hậu Māya về vương quốc Koliya quê hương của bà để sinh nở. Trên đường từ Ca-tỳ-la-vệ về Ramagama của vương quốc Koliya quê của bà để sinh nở, bà đã ghé nghỉ tại vườn Lâm-tì-ni (Lumbini).
Trong
vườn, muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang hót ca. Một sáng mai đẹp trời, bà thấy hoa Vô ưu đang nở đầy cành, hương và sắc đẹp đẽ, liền bước
tới đưa tay nắm lấy cành hoa, thì Thái tử cũng liền thị hiện ngay lúc đó.
Bấy giờ là ngày trăng tròn tháng Vesākha, năm 623 trước Tây lịch.
Khi ra đời Thái tử đứng thẳng nhìn vào hông phải của mẹ mà nói:
“Ngã thử thân hình Tùng kim nhật hậu, Bất phục cánh thọ Ư mẫu hiếp trung Bất nhập thai ngọa Thử thị ư ngã Tối vị
hậu thân Ngã đương tác Phật”.1
Nghĩa là:
Thân này của con Từ nay về sau Không còn trở lại Vào nằm trong thai Ở
trong hông mẹ Thân nầy của con Là thân sau cùng Con sẽ thành Phật.
Rồi, Thái tử nhìn bốn phương, mỗi phương đi bảy bước đều có
hoa sen lớn xuất hiện để đỡ chân Ngài. Trước hết nhìn về phương Đông, Thái tử nói:
“Chánh ngữ chánh ngôn, Thế gian chi trung Ngã vi tối thắng, Ngã tùng kim nhật Sanh phần dĩ tận”.2
Nghĩa là:
Lời nóichính xác, Ở trong thế gian, Tôi là tối thắng, Tôi
từ hôm nay Chấm dứt sinh tử.
Chi tiết nầy, lại được ghi chép cụ thể hơn trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, rằng:
“Khi sinh ra Ngài bước đi về phương Đông bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân; lúc
bấy giờ Ngài không có chút sợ hãi và nói mạch lạc như sau:
Ngã đắc nhất thiếtthiện pháp Đương vị chúng sanh thuyết chi”.
Nghĩa
là: Tôi sẽ thành tựu hết thảy thiện pháp và sẽ vì chúng sanh mà nói.
-Ngài
lại bước đi bảy bước về phương Nam, rồi lại nói:
“Ngã ư nhân thiên Ứng thọ cúng dường”.
Nghĩa là: Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường của chư Thiên và loài ngời.
Ở trong thế gian Tôi là tối tôn Tôi là tối thắng Thân
nầy của tôi Là thân cuối cùng Chấm dứt sinh tử.
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Bắc và nói:
“Ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung, vi vô thượng thượng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ ở nơi hết thảy chúng sanh, làm bậc Vô thượng thượng.
Ngài lại đi bảy bước nhìn xuống Hạ phương và nói:
“Ngã đương hàng phục Nhất thiếtma quân Hựu diệt địa ngục Chi mãnh hỏa đảnh Sở hữukhổ cụ Thi
đại pháp vân Vũ đại pháp vũ Đương linh chúng sanh Tận thọ an lạc”.
Nghĩa là:
Tôi sẽ hàng phục Hết thảy ma quân Hủy
diệt khổ cụ Dập tắt lửa dữ Ở nơi địa ngục Giăng mây pháp lớn Tuôn
mưa pháp lớn Khiến cho chúng sanh Tận hưởng an lạc.
Ngài lại đi bảy bước nhìn lên Thượng phương và nói:
“Ngã đương vị nhất
thiết chúng sanh, chi sở chiêm ngưỡng”.
Nghĩa là: Tôi sẽ vì hết thảy chúng sanh làm nơi chiêm ngưỡng.
Lúc Ngài nói vừa xong, âm thanh của Ngài vang khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.3
Năm ngày sau, vua Tịnh Phạn làm lễ quán đảnh và đặt tên Thái tử là Tất-đạt-đa và mời đạo sĩ A-tư-đà (Asitakaladevala) đến đoán tướng. Đạo sĩ nói: “Thái tử có 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, nếu ở đời thì Thái
tử sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương, dùng đức hạnh để trị vì thiên hạ. Nếu xuất gia, thì Thái tửtrở thành Bậc toàn giác đem lại sự hạnh phúcan lạc cho đời”. Niềm tin, hiểu biết và sự cảm nhận:
Việc
chuyển tải năng lượng từ một không gian nầy đến một không gian khác bằng tự thân của những năng lượng hay bằng những dụng cụ khoa học vật lý
đối với trí thức của con người ngày nay không còn là điều bí hiểm.
Cũng
vậy, việc đức Phật Thích-ca ra đời cách đây 26 thế kỷ, đi bảy bước trên
bảy hoa sen và tuyên bố những câu như đã trích dẫn ở trên đã làm cho nhiều nhà trí thức tự đặt lại câu hỏi, những sự kiện ấy có thực sự xảy ra không hay chỉ là bịa đặt, huyền thoại và bí hiểm?
Kinh Hoa Nghiêm còn nói rằng, khi đức Thích-ca thị hiện xuống thế giới Ta-bà nầy,
nằm ở trong thai mẫu, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười
phương và vô số Bồ-tát vào ra ở trong thai mẫu của Ngài để nghe Ngài thuyết pháp, ấy lại là một điều khó tin khó hiểu đối với chúng ta nữa, lại càng huyền thoại và bí hiểm hơn nữa?
Và kinh Pháp Hoa lại nói, không phải đức Thích-ca mới thành Phật từ đời nầy, mà Ngài đã thành
Phậttừ vô lượng kiếp về trước và đã từng giáo hóavô lượng, vô số, vô biênchúng sanh. Nên sự có mặt của Ngài cách đây hơn 26 thế kỷ, chỉ là sự tái diễn. Sự tái diễnliên tục của bản nguyệnTừ bi. Và Ngài vẫn nghiễm nhiên còn đó mà mắt thườngchúng ta không thể nào thấy được.
Những
điều ấy, kinh điển đã ghi lại cho chúng ta đọc, làm cho ta như có vẻ khó hiểu và huyền thoại. Nhưng, chẳng khó hiểu và huyền thoại chút nào, khi ta có một chút tuệ giác và tâm nguyện.
Tại sao? Trước hết, ta
nhìn nhận đức Phật là một con người như bất cứ con người nào ở trên trái đất nầy, nên những gì mà đời sốngcon người biểu hiện, thì đối với những loại vật thấp kém không thể nào hiểu nổi, và đối với thế giới loài
vật, thì mọi biểu hiện của thế giớicon người đối với chúng là không thể nghĩ bàn, là cực kỳ huyền thoại, bí hiểm. Nhưng những hành động biểu
hiện giữa con người với con người, chẳng có gì là huyền thoại cả, chúng
là một sự kiện biểu hiện tự nhiên.
Cũng vậy, đức Phật Thích-ca xuất hiện giữa thế giớicon người với hình thứccon người, nhưng lại khác người và siêu việtcon người. Tại sao? Vì con ngườixuất hiện trong thế giớicon người bằng nghiệp lực và bằng quả báo làm người; nên sự xuất hiện ấy hoàn toànthụ động, không có chủ quyền và tự do, bị trói
buộc ở trong sanh, già, bệnh, chết.
Trái lại, đức Phậtxuất hiện
giữa thế giớiloài người bằng hình tướngcon người, nhưng không phải bằng nghiệp lực mà bằng nguyện lực, không phải bằng khát ái mà bằng đại từ bi, không phải bằng quả báosinh tử mà bằng phước báo và với tư cách của một vị Giác ngộ, nên Ngài hoàn toàn có tự do và có chủ quyền khi nhập thai, trú thai và xuất thai.
Ngài nhập thai, trú thai và xuất thai đều là với tư cách của một vị Giác ngộ, không bị ràng buộc bởi
những hệ lụysinh tử, nên khi nhập thai Ngài có vô số Bồ-tát tiễn đưa, nhạc trời ngân lên ca ngợi; khi Ngài ở trong thai, có vô số Bồ-tát vào ra thai tạng để nghe Pháp và luận bànChánh pháp và khi Ngài xuất thai, thì có chư Thiên tung hoa và hoa sen đỡ chân, đi bảy bước và có những lời tuyên bố xác quyết tư cáchgiác ngộ của mình, như:
“Ở trong thế gian Tôi là tối tôn, Tôi là tối thắng Thân nầy của tôi Là
thân cuối cùng Không còn sinh tử”.
Lời tuyên bố như vậy và phong thái biểu hiện như vậy của Ngài, nếu ta nghe lời ấy bằng tâm Bồ-tát và bằng tâm Phật, thì chẳng có gì khó hiểu. Nếu ta đưa đôi mắt Bồ-tát hay Phật mà nhìn, thì chẳng có gì là khó tin, chẳng có gì là bịa đặt và huyền thoại; nhưng nếu ta đem tâm phàm phu mà nghe, lấy mắt thịt mà nhìn, thì ta chẳng nghe và chẳng thấy cái gì, nên tất cả đều là huyền
thoại và bí hiểm.
Khoa học ngày nay đã khám phá ra những điều kỳ
lạ, nên việc kinh Hoa Nghiêm nói, khi đức Phật Thích-ca đang ở trong thai mẹ, Ngài đã thuyết pháp cho vô số Bồ-tát khắp cả mười phương, và vô
số Bồ-tát khắp cả mười phương đều đến nhập thai mỗi ngày để nghe đức Thích-ca thuyết pháp là điều mà ngày nay với cách nhìn khoa học, ta có thể tin và hiểu được bằng những phương phápsiêu âm, hay bằng những phương phápsử dụngquang tuyến X, hay những làn sóng điện của truyền hình, truyền thanh, v.v…
Lại nữa, đức Thích-ca đến và nằm ở trong thai mẹ bằng năng lượng của tuệ giác và đại nguyệnTừ bi, nên những gì ô nhiễm trong thai mẹ không làm chướng ngại và ô nhiễm được Ngài.
Nằm ở trong thai mẹ mà đức Thích-ca vẫn phóng ánh sáng của năng lượngtuệ giác và đại nguyện để tiếp xúc với năng lượngtuệ giác và
đại nguyệntừ bi của vô số Bồ-tát khắp cả mười phương. Đồng thời mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, vô số Bồ-tát khắp cả mười phương đều sử dụng ánh sáng bằng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của mình để tiếp xúc với ánh sáng năng lượngtuệ giác và đại nguyệntừ bi của đức
Thích-ca đang có mặt và hoạt động ở trong mẫu thai là điều mà chúng ta có thể hiểu và thấy được bằng cái nghe và cái thấy, bằng tai mắt khoa học công nghệ ngày nay.
Do đó, việc nhập thai, trụ thai và xuất thai của đức Thích-ca với những hiện tượng kỳ lạ, khó hiểu, khó tin so với sự suy nghĩ và cách nhìn bằng con mắt của con người, lại là những sinh hoạtthực tế trong truyền thốngvăn hóa, đạo đức, tâm linh của thế giớibản nguyện; ấy là thế giới của những vị Bồ-tát chỉ còn một đời sau cùng thành Phật. Các Ngài đều đã, đang và sẽ nhập thai như vậy; đều đã, đang và sẽ trú thai như vậy và đã, đang và sẽ xuất thai như vậy.
Điều
ấy đã, đang và sẽ diễn ra như vậy là như vậy, ta có cảm nhận được thì cảm nhận, ta có tin được thì cứ tin; nếu chưa cảm nhận được, chưa tin được thì để đó, đừng vội vàngbác bỏ, hay đừng vội vàngkết luận. Cũng chỉ là một sự kiện xảy ra, ta phải đứng từ nhiều góc độ để nhìn nhận, và
cảm nhận để tin hiểu, ta mới có thể thẩm thấu được bản chất của vấn đề.
Nên,
Phật Đản PL.2550 lại trở về với chúng ta, chúng ta lại thực tập hạnh không vội tin và không vội phỉ báng hay kết luận khi thấy những gì đang xảy ra trong ta và xung quanhchúng ta.
Chúng ta phải thực sự sâu
lắng và trầm tĩnh, để chúng ta dâng hiến đức tính ấy lên cúng dường ngày Đản Sanh đức Từ Phụ của chúng ta và muôn loài.
Chú thích: 1. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 7, tr. 687a, Đại Chánh 3. 2.
Kinh đã dẫn, 687b 3. Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh 3, tr. 553ab, Đại Chánh 3.
Về phương diệnđền ơncha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơncha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
Tôn giả Xá Lợi Phấtxuất thân từ giai cấpBà la môn, nổi tiếngthông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệmbáo đápcông ơn của cha mẹ.
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thươngbao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu đểcúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâmphản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
Trên phương diệnxuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháptu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sốngtâm linh.
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đức có giá trị chung cho toàn thểnhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tựxã hội.
Tinh thầntừ bicứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vinhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tửtại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liênbáo đápcông ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tửtại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liênbáo đápcông ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
Hàng năm, chúng tavâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dườngtrai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướngphước báo đến Cha Mẹ...
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếu và báo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏiđịa ngục.
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theoâm thanhấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàngthân tộc từ đời đờikiếp kiếpluân hồivới nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràngsáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm khôngđiên đảo, là chân tâm.
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếp là âm thanh của một tràng tiếng chân...
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chất và tâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thươngvô tận...
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng tarung động vì mối cảm hoài đến công ơnsinh thànhdưỡng dục của cha mẹ.
Mục Kiền Liên là hiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hàvô biên của Bồ tát...
Các Tỷ kheothực hành phápan cư, là biểu hiện mẫu mực đời sốngly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệtgiới thiệu về truyền thốngtu tập thiềnTứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệ và từ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng tanhận định được bản chấtcăn bản của chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyênhư vọnghòa hợp mà có sanh, nhân duyênhư vọngbiệt ly mà có diệt.
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướngvũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vậttùy ýtự tại.
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đếnchính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tậnbiện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.