Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chi tiết linh diệu nơi ngày Ðản sinh của Phật theo các kinh thuộc Hán tạng

13 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11395)
Chi tiết linh diệu nơi ngày Ðản sinh của Phật theo các kinh thuộc Hán tạng

 

Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ, linh diệu. Vì như thế, việc các kinh điển thuộc hệ Nam truyền, nhất là hệ Bắc truyền viết về lịch sử Ðức Phật đã nói nhiều đến khía cạnh linh diệu, cũng là chuyện bình thường, hợp lẽ. Nhân mùa Phật Ðản, chúng tôi xin bàn qua chi tiết linh diệu trong ngày Ðản sinh của Ðức Bổn Sư, theo các kinh thuộc Hán tạng. Ðó là chi tiết: Thái tử vừa mới sinh ra, đã tự bước đi 7 bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, với câu nói mà nhiều người đã biết.

1. Kinh No184: Kinh Tu Hành Bản Khởi

Do 2 Ðại sư Trúc Ðại Lực và Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu Hán (25-220), gồm 2 quyển.

Về chi tiết linh diệu kể trên, kinh viết: "Hành thất bộ, cử thủ tục nhi ngôn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ, ngô đương an chi" (Kinh Tu Hành Bản Khởi, No184, quyển 1, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 463C). [...Thái tử đi bảy bước, giơ tay, dừng lại và nói: Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý. Ba cõi đều khổ, Ta sẽ đem lại sự an lạc].

2. Kinh No185: Kinh Thái Tử Thụỵ Ứng Bản Khởi

Do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời Ðông Ngô (222-280) gồm 2 quyển. Nơi quyển 1, đoạn thuật lại ngày Ðản sinh của Phật về chi tiết linh diệu đã nêu cũng giống với kinh No 184:

"Tức hành thất bộ, cử hữu thủ trụ nhi ngôn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ hà khả lạc giả"... (Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, No 185, quyển 1, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 473C). [...Thái tử liền đi bảy bước, giơ tay phải lên, dừng lại và nói: Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?)].

3. Kinh No186: Kinh Phổ Diệu

Do Pháp sư Trúc Pháp Hộ (226-304) dịch vào đời Tây Tấn (265-317), gồm 8 quyển. Ðây là bản Hán dịch được thực hiện trước, từ cùng một bản tiếng Phạn. Bản Hán dịch sau tức kinh No 187.

So với 2 kinh 184, 185, kinh Phổ Diệu viết về sự kiện linh diệu nêu trên gồm nhiều chi tiết hơn:

"Nhĩ thời Bồ tát tùng hữu hiếp sinh, hốt nhiên kiến thân trụ bảo liên hoa, trụy địa hành thất bộ, hiển dương Phạm âm, vô thường huấn giáo: "Ngã đương cứu độ, thiên thượng thiên hạ vi thiên nhân tôn, "đoạn sinh tử khổ, tam giới vô thượng, sử nhất thiết chúng sanh vô vi thường an" (Kinh Phổ Diệu, No186, quyển 2, ÐTK/ÐCTT, T3, tr 494A). [Lúc này, Bồ tát từ nơi hông bên phải sinh ra, hốt nhiên thấy thân trụ ở đóa sen báu. Bước xuống đất, Bồ tát liền đi bảy bước, tiếng nói là Phạm âm vang rõ, chỉ dạy về vô thường: Ta sẽ cứu độ muôn loài, trên trời dưới trời, là bậc tôn quý của hàng Trời, Người, diệt trừ mọi thứ khổ của sinh tử, 3 cõi không gì hơn khiến cho hết thảy chúng sinh luôn được an lạc nơi cảnh giới giải thoát].

4. Kinh No187: Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm

Hán dịch là Ðại Sư Ðịa Bà Ha La, dịch vào đời Ðường (618-907) gồm 12 quyển, chi tiết linh diệu kể trên thuộc quyển thứ 3, không chỉ "đi 7 bước" ở 1 phương mà cả 6 phương, mỗi phương đều có những bày tỏ không giống nhau.

* Phương Ðông: "Sở hạ túc xứ giai sinh liên hoa. Ngã đắc nhất thiết thiện pháp, đương vị chúng sanh thuyết chi" (Nơi mỗi dấu chân đi qua đều sinh hoa sen. Ta đã đạt được hết thảy các pháp thiện, sẽ vì chúng sanhthuyết giảng).

* Phương Nam: "Nơi hàng Trời, Người, Ta là bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường".

* Phương Tây: "Ðối với thế gian, Ta là bậc tối tôn tối thắng, đây tức là sự thọ thân sau cùng của Ta, dứt sạch mọi sinh lão bệnh tử".

* Phương Bắc: "Ta sẽ ở trong muôn loài là bậc Vô thượng, tột cùng".

* Phương Hạ: "Ta sẽ hàng phục hết thảy quân ma..."

* Phương Thượng: "Ta sẽ được tất cả chúng sinh dốc lòng chiêm ngưỡng".

(Kinh Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm, No187, quyển 3, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 553A-B.

5. Kinh No188: Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi

Do cư sĩ Nhiếp Ðạo Chân dịch vào đời Tây Tấn, 1 quyển, đã ghi nhận về chi tiết linh diệu kia như sau:

"Tùng mẫu hữu hiếp sinh, trụy địa, hành thất bộ chi trung, cử túc cao tứ thốn, túc bất đạp địa, tức phục cử hữu thủ ngôn: Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả". (... Từ nơi hông bên phải của mẹ sinh ra, chạm đất, trong khi đi bảy bước, chân cất cao đến 4 tấc, không đạp đất, lại giơ cao tay phải nói: Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai hơn Ta). (ÐTK/ÐCTT, T3, tr 618A).

6. Kinh No189: Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả

Hán dịch là Ðại Sư Cầu Sa Bạt Ðà La, dịch vào đời Lưu Tống (420-478) gồm 4 quyển, sự kiện linh diệu trên thuộc về quyển 1. Kinh viết: "Bồ tát tiệm tiệm tùng hữu hiếp xuất... Vô phù thị giả "tự hành thất bộ, cử kỳ hữu thủ, nhi sư tử hống: Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sinh tử ư kim tận hỉ" (ÐTK/ÐCTT, T3, trang 625A).

[Bồ tát dần dần từ nơi hông bên phải sinh ra... không người để vịn, đỡ, tự đi bảy bước, giơ cao tay phải, lời nói như tiếng sư tử gầm: Ta, đối với tất cả hàng Trời, Người, là bậc tối tôn tối thắng. Vô lượng nẻo sinh tử từ nay sẽ dứt sạch].

7. Kinh No190: Kinh Phật Bản Hạnh Tập

Do Ðại sư Xà Na Quật Ða dịch vào đời Tùy (589-618) gồm đến 60 quyển, là bộ kinh bề thế nhất của bộ Bản duyên thuộc Phật giáo Bắc truyền. Về sự kiện linh diệu kia, kinh viết:

"Bồ tát sinh dĩ, vô nhân phù trì, tức hành tứ phương diện các thất bộ, bộ bộ cử túc xuất đại liên hoa. Hành thất bộ dĩ, quan thị tứ phương, tiên quan đông phương, mục vị tằng thuấn, khẩu tự xuất ngôn: Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật sanh phần dĩ tận... dư phương tất nhiên".

(Kinh Phật Bản Hạnh Tập, No190, quyển thứ 8, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 687B).

[Bồ tát sinh rồi, không người để vịn đỡ, liền đi về 4 phương, mỗi phương đều đi 7 bước, nơi mỗi bước khi cất chân lên đều có hoa sen lớn xuất hiện. Ði 7 bước xong, bèn nhìn khắp 4 phương, trước là nhìn về phương Ðông, mắt không hề chớp, miệng phát ra lời: Trong thế gian, Ta là bậc tối thắng. Từ nay, nẻo sinh tử của Ta đã dứt... các phương khác cũng thế].

8. Kinh No191: Kinh Chúng Hứa Ma Ha Ðế

Do Ðại sư Pháp Hiền dịch vào đời Triệu Tống (960-1279), gồm 13 quyển, chi tiết linh diệu nêu trên thuộc quyển thứ 3. Ðiều đáng chú ý ở đây là, cùng với 7 bước đi về 4 phương, kinh không ghi nhận các câu nói như những kinh kia mà chỉ giải thích ý nghĩa biểu trưng nơi 4 phương:

"Nhĩ thời Thái tử thân tướng viên mãn... ư kỳ tứ phương các hành thất bộ. Ðông phương biểu Niết bàn tối thượng. Nam phương biểu lợi lạc quần sanh. Tây phương biểu giải thoát sinh tử. Bắc phương biểu vĩnh đoạn luân hồi". (ÐTK/ÐCTT, T3, trang 939B).

[Bấy giờ, thân tướng của Thái tử đã viên mãn... Ở nơi 4 phương đều đi 7 bước. Phương Ðông là biểu thị cho Niết bàn tối thượng. Phương Nam là biểu thị cho việc đem lại lợi lạc nơi muôn loài. Phương Tây là biểu thị cho sự giải thoát khỏi sinh tử. Phương Bắc là biểu thị cho sự đoạn trừ vĩnh viễn nẻo luân hồi].

9. No192: Phật sở hành tán

tác phẩm "trường ca" đầu tiên của Phật giáo Bắc truyền viết về cuộc đời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, tác giả là Ðại sĩ Mã Minh (100-160TL), một luận sư đã có những đóng góp lớn vào quá trình hình thành hệ thống Phật giáo Phát triển. Hán dịch "Phật sở hành tán" là Ðại sư Ðàm Vô Sấm, dịch vào đời Bắc Lương (401-439), gồm 5 quyển, 28 phẩm với 9.216 câu thơ 5 chữ.

Về chi tiết linh diệu nêu trên, Phật sở hành tán chỉ nói đến "Bồ tát vừa sinh ra đã đi bảy bước" với câu nói:

"Thử sinh vi Phật sinh

Tắc vi hậu biên sinh

Ngã duy thử nhất sinh

Ðương độ ư nhất thiết".

(ÐTK/ÐCTT, T4, trang 1B)

 

Ðây là Phật thị hiện

Lần sinh ấy cuối cùng

Ta với một đời này

Muôn loài nguyền độ thảy.

10. No193: Kinh Phật Bản Hạnh Nguyện (thi kệ)

Do Sa môn Bảo Vân người Lương Châu, dịch vào đời Lưu Tống, gồm 7 quyển, 31 phẩm, sử dụng các thể thơ 4 chữ, 7 chữ để dịch, trong đó chiếm đa số là câu 5 chữ (7.426 câu)... Sự kiện linh diệu kể trên đã được mô tả:

Hiện 7 Giác ý

Dứt sạch phiền não

Nên đi 7 bước...

Như mặt trời sáng

Chiếu thắp bốn phương

Hiện pháp Tứ đế

Như Sư tử gầm:

Ta với đời này

Thọ thân sau rốt

Không còn trở lại

Theo nẻo thai sinh

Ta sẽ thành Phật

Ðạo rất khó đạt

Dẫn dắt muôn loài...

Chúng tôi xin nêu ra mấy ghi nhận bước đầu như sau:

1. Qua 10 trích dẫn trên, khỏi phải giảng giải thêm, chúng ta cũng đã lãnh hội được ý nghĩa chính của toàn bộ vấn đề: đó là sự xuất hiện của một bậc vĩ nhân và với giáo pháp giác ngộ, giải thoát mà bậc vĩ nhân ấy chứng đắc sau này, đối chiếu trong 3 cõi, chính là giáo pháp vô thượng của bậc tối thượng.

2. Câu nói của Thái tử (Bồ tát) mang tính chất thâu tóm là: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn". "Duy ngã vi tôn" ở đây nên được hiểu là: Như Laigiáo pháp của Như Lai là tôn quý bậc nhất, không ai có thể vượt hơn, không gì có thể so sánh. Vì chỉ có giáo pháp vô thượng của bậc tối thượng ấy mới giúp con người đạt đến giác ngộgiải thoát.

3. "Duy ngã vi tôn" ở đây không hề có đại ngã, tiểu ngã gì cả, mà cũng không hề mâu thuẫn gì với giáo lý vô ngã, một trong những giáo lý tiêu biểu nhất mà Ðức Phật đã chứng đắc. Ðây chỉ là sự khẳng định, nói rõ hơn là sự khẳng định của người biên chép kinh, mang ý nghĩa "báo trước" về tính chất xuất chúng của Ðức Phật vừa ra đời cùng giáo pháp mà Phật sẽ chứng đắc về sau. Phật Quang đại từ điển đã giải thích khá rõ:

"Duy ngã độc tôn (**): Nghĩa là trong thế giới chỉ có Ta là tôn quý hơn hết. Căn cứ theo kinh Trường A Hàm, quyển 1, được ghi chép nơi kinh Ðại Bản (kinh Trường A Hàm gồm 22 quyển với 30 kinh, kinh Ðại Bản là 1 trong số 30 kinh ấy - ÐN chú) thì Ðức Thế Tôn do mẹ là phu nhân Ma Da sinh ra từ nơi hông bên phải, khi vừa chạm đất, đã tự mình đi 7 bước, nhìn khắp bốn phương, giơ cao tay lên, nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn" (ÐTK/ÐCTT, T1, trang 4C), dựa nơi sách "Thích Môn quy kinh nghi" quyển thượng, đã giải thích, thì nhân xã hội Ấn Ðộ đương thời, dân tình, phong tục tỏ ra trọng thị 96 học phái ngoại đạo, tất cả các phái này đều tự cho là bậc đại thánh nhân, là hàng thầy của Trời, Người; Ðức Thế Tôn vì nhằm diệt trừ nẻo tà, dẫn về nẻo chánh, nên đã thị hiện tướng ấy, biểu thị là trong 3 cõi chỉ có Phật là tôn quý hơn hết, có thể cứu độ khắp trên trời dưới trời, là bậc tôn quý của hàng Trời, Người, đoạn trừ sự khổ của sinh tử, khiến cho tất cả chúng sanh đạt được an lạc lớn"... (Phật Quang đại từ điển, Phật Quang xuất bản xã ấn hành, 1999, trang 4423/1).

Tháng 4-2002

GHI CHÚ:

(*) Xem nguyệt san Giác Ngộ số 60, 61 (tháng 3, 4-2001)

In lại trong Phật học cơ bản, T4.

(**) Các kinh thuộc Phật giáo Bắc truyền đã dẫn, kể cả kinh Trường A Hàm, quyển 1 đều chép là "duy ngã vi tôn". "Ðộc tôn" chắc là do sự thêm bớt của người đời sau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15583)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23039)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14064)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12987)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55120)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9180)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14450)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14170)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14213)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36330)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19894)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18181)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19227)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19166)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20293)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17643)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31541)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15948)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15025)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14696)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46183)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35948)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21616)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23409)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34393)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19494)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18952)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22943)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20200)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18375)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19846)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19538)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33434)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34499)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54532)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37740)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21142)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17894)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63663)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17393)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49668)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27481)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20282)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23048)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18896)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16329)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17926)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20943)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17374)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14477)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16868)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16378)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16001)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17485)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21988)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15111)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13510)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14378)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15411)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15001)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12706)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13355)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27401)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12521)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13201)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14495)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16246)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12413)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15427)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12873)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12210)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13205)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21662)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11287)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22741)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15089)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14957)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46200)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22475)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14590)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12626)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18916)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14745)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43874)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56984)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13850)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47509)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13662)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29019)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33325)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38398)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15411)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31243)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12536)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40398)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43432)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46674)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant