Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật: đạo sự thật, đạo cứu khổ, đạo hòa bình

18 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12786)
Đạo Phật: đạo sự thật, đạo cứu khổ, đạo hòa bình

ĐẠO PHẬT: đạo SỰ THẬT, đạo CỨU KHỔ, đạo HÒA BÌNH
GS001 viết bài này để kính tặng tất cả các vị lãnh đạo trên thế giới

blankMặc dầu tất cả các tôn giáo đều ca ngợi tình thương, nhưng cho đến nay, ngoại trừ Phật giáo, tất cả các tôn giáo khác đã từng có những cuộc thánh chiến đẫm máu. Riêng về Phật giáo, khoảng thế kỷ 12, đạo Hồi cũng đã tàn sát Chư tăng và triệt phá các cơ sở giáo dục của Phật giáo trong các nước nam Á, trong đó có Ấn độ và Afganistan. Tuy nhiên người ta không hề thấy có sự trả thù của Phật giáo trong vụ này. Phải chăng giáo lý đạo Phật có một tình thương chân thật, giúp cho tín đồ của họ sống hòa bình dễ dàng hơn với các tôn giáo khác?

So với các tôn giáo khác đạo Phật, với tinh thần “giác ngộ” các sự thật, là tôn giáo gần gũi nhất với khoa học. Nhất là khi cả 2 bên đều đặt nền tảng trên LUẬT NHÂN QUẢ. Nếu trong các ngành khoa học, các tôn giáo có thể ngồi lại với nhau, bằng tinh thần sự thật, thì họ cũng có thể làm được như vậy đối với đạo Phật? Vì những sự thậtđạo Phật tuyên bố, không đòi hỏi phải có đức tin mới có thể chấp nhận được, mà chỉ cần có Trí tuệ thì đều có thể thấy được như nhau. Mỗi khi Hòa bình được đặt nền tảng trên sự thật thì hòa bình sẽ có nhiều đồng thuận và sẽ được bền bỉ nhất.

Đạo Phật cho rằng, thế gian này khổ vì ba thứ Tham, Sân, và Si, trong đó Si mê (thiếu trí tuệ) là gốc cội của tất cả. Chính vì thiếu trí tuệ (vô minh) để thấy rõ những sự thậtcon người có những suy nghĩ và hành động lầm lẫn do Tham lam hoặc Thù hận thúc đẩy để gây ra đau khổ cho mình, cho người. Thế giới không sống được trong hòa bình cũng do ba thứ Tham, Sân, Si gây ra chiến tranh. Do đó những sự thậtcon người cần chứng ngộ để chấm dứt Tham, Sân, Si, gây đau khổ cho mình, cho người, thì các nhà lãnh tụ trên thế giới cũng có thể áp dụng để chấm dứt Tham, Sân, Si gây ra chiến tranh cho nhân loại, để nhân loại luôn luôn được sống trong hòa bình.

1. Sự thật đầu tiên, mà mọi người con Phật đều phải chứng ngộLUẬT NHÂN QUẢ, nói rộng ra là DUYÊN KHỞI. Đó là sự thật được dùng làm nền tảng để suy diễn ra các sự thật kế tiếp.Luật Nhân quả là một sự thật về mọi biến đổi ở trong vũ trụ. Mọi sự hình thành của vạn vật ở trong vũ trụ, vật chất cũng như tinh thần, được Đức Phật xác định qua Định đề sau đây và định đề này luôn luôn được nghiệm đúng trong mọi trường hợp:

Các Pháp do duyên sinh
Duyên diệt các Pháp diệt.

Luật nhân quả là một sự thật mà không một quyền năng thần thánh nào có thể vượt qua được. Cũng vì luật nhân quả này mà khi ta bị bệnh, ta phải đi bác sĩ hay nhà thương để họ tìm nguyên nhân chữa trị, chứ không thể ngồi cầu nguyện ai mà khỏi bệnh. (nếu có được chăng thì cũng không phải là một giải pháp có thể chấp nhận được vì kết quả chưa chắc đến 1%). Cũng vì luật nhân quảcon người đã thiết lập nên những hệ thống công lý cho xã hội, chứ không thể căn cứ trên đức tin tôn giáo mà xét tội.

Luật nhân quả khẳng định rằng chính tư tưởng và hành động của mình định liệu hạnh phúc hay đau khổ cho mình, chứ không phải do sự ban ơn giáng hoạ của một đấng thần linh nào cả. Nếu ta làm sai thì ta phải chịu hậu quả sai. Nếu ta làm đúng thì ta được phần thưởng đúng. Nhờ hiểu được những điều căn bản này nên người Phật tử không bao giờ dám nhân danh Phật hay một đấng thần linh nào để gây khổ đau cho kẻ khác.

Người Phật tử còn được giáo dục kỹ lưỡng hơn về luật nhân quả của Tình thương. Trong những trường hợp giản dị, nếu ta tạo được hạnh phúc cho người thì người cũng sẽ tạo lại hạnh phúc cho ta. Nếu ta gây đau khổ cho người thì người cũng sẽ gây lại đau khổ cho ta. Trong tương quan này Đức Phật còn dạy thêm:

Lấy oán báo oán, oán oán chồng chất
Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu diệt.”

“Ân” có khả năng dập tắt “Oán” cũng như “nước” có khả năng dập tắt “lửa”, đó cũng là một luật nhân quả. Nhờ thấu hiểu những lời dạy này mà người Phật tử chân chính không nghĩ đến chuyện trả thù, vì nó chỉ gây thêm đau khổ triền miên, không phải là hành động của một người trí tuệ.

Giáo lý Đạo Phật còn đưa ra vô số gương hy sinh chịu đựng của các vị Bồ tát để nhắc nhở cho các Phật tử về sự quí giá của tình thương. Vì tình thương có khả năng tạo hạnh phúc, cho ta cho người, trong mọi hoàn cảnh, hơn bất cứ một thứ châu báu nào trên thế gian, cho nên các vị Bồ tát (những chúng sanh có trí tuệ, những người sẽ thành Phật trong tương lai) luôn luôn gìn giữ tâm từ của mình không khác gì người giàu bảo vệ tài sản của họ.

Dầu trong những trường hợp bị cắt da xẻ thịt, họ vẫn có thể cầu nguyện sự an vui cho kẻ thù, không để lòng thù hận dấy lên làm sứt mẻ tình thương của mình. Phát triển tình thương đến độ như thế thì không còn ai có thể gây đau khổ cho ta, và sẽ an vui trong mọi hoàn cảnh. Cho nên một vị lãnh đạotrí tuệ phải hiểu rằng, thương yêu kẻ thù không những có thể cải đổi được kẻ thù mà còn tạo hạnh phúc tức khắc cho chính mình.

2. Cuộc sống bấp bênh, thế gian VÔ THƯỜNG. Đó là sự thật thứ hai mà đa số người Phật tử thấu hiểu. Nhờ ý thức sự vô thường là không thể tránh, nên người Phật tử dễ dàng chấp nhận những đổi thay, ít đau khổ và ít tức giận mỗi khi bị mất mát. Cũng chính vì sự thật vô thường này nên Đức Phật dạy không nên quá ràng buộc vào bất cứ thứ gì, kể cả những lời dạy gọi là “chân lý” của ngài: “giáo lý ta chỉ như thuyền qua sông, đến bờ rồi phải bỏ”.

Giáo lý của Phật là giáo lý để “giải thoát” chứ không phải là giáo điều để cột buộc tín đồ. Phật chưa bao giờ tuyên bố “các ngươi phải theo ta hay tôn thờ ta. Trái lại, ngài khuyên nhủ: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, với chánh pháp”. Đó là lý do người Phật tử ít có sự cố chấp, ràng buộc; coi mọi giá trị, đúng, sai, tốt, xấu, chỉ có tính cách tương đối, tuỳ duyên, và tạm thời. Do đó người Phật tử dễ dàng thông cảm và “tuỳ thuận chúng sanh”. Dễ dàng sống hoà bình với các tư tưởng khác.

Chiến tranh và độc tài thường xảy ra do con người lạm dụng sức mạnh để bắt người khác phải theo những ham muốn của mình. Nếu sự ham muốn bị cản trở, người ta rất dễ tức giận và có khi trở thành độc ác, không ngần ngại trừ diệt kẻ yếu thế. Người Phật tử thấu triệt luật vô thường, biết không có một sức mạnh nào có thể tồn tại mãi mãi, lạm dụng sức mạnh để gây khổ đau cho kẻ khác cũng chính là tự sửa soạn cho mình một tương lai đau khổ. Đó không phải là hành động của kẻ có trí tuệ.

Khi một nhà lãnh tụ thấu triệt được sự thật VÔ THƯỜNG, thì ông ta cũng sẽ bớt lạm dụng quyền lực để đạt tham vọng của mình. Nhất là khi ông ta đã biết trước rằng dầu tham vọngđạt được đi nữa thì rồi một ngày kia ông ta cũng sẽ mất hết tất cả, rồi cũng chỉ còn lại thương tiếc và khổ đau. Do đó nếu thấy điều mình ham muốn sẽ gây chiến tranh khổ đau cho người khác thì ông ta cũng sẽ dễ dàng từ bỏ.

Điều khôn ngoan hơn là: khi ta đang có khả năng hay quyền lực, thì hãy dùng khả năng và quyền lực đó để giúp đỡ kẻ khác. Đó là sửa soạn cho mình một hạnh phúc lâu dài hơn, bảo vệ sức mạnh của mình lâu dài hơn, vì đã không gieo ra những “nhân” thù hận muốn phá hoại sức mạnh của mình. Đây cũng là lý do tại sao các tôn giáo (đặt nặng về tình thương) đã tồn tại lâu hơn bất cứ một “đế quốc” nào từ xưa tới nay.

3. KHỔ là một sự thật của cuộc đời. Đó là sự thật thứ ba mà đạo Phật luôn luôn khẳng định. Tuy nhiên đạo Phật không lìa bỏ sự khổ của thế gian để đi tìm thiên đàngmột thế giới khác. Trái lại đạo Phật nhìn nhận “đời là khổ” để tìm “nguyên nhân của sự khổ” để tận diệt những nguyên nhân đó, để đạt được Niết bàn ngay trên thế gian khổ đau này. Đó là điểm rất tích cực của đạo Phật đối với sự khổ.

Cho nên đạo Phật không phải là đạo bi quan tiêu cực như nhiều kẻ “yêu đời” kết án. Sự khẳng định sự thật khổ của cuộc đời làm cho Đạo Phật càng thêm yêu đời chứ không phải để chán đời. Sự chán đời chỉ để dành cho những kẻ “yêu đời” bị thất vọng khi họ phải đối diện với sự thật khổ mà họ đã không tin từ trước. Chứ mỗi khi đã chấp nhận “đời là khổ” thì sẽ bớt đòi hỏi cuộc đời và sẽ yêu thươnglo lắng cho cuộc đời nhiều hơn. Đó cũng như những người biết quê hương mình nghèo khổ nên biết lo lắngyêu thương quê hương mình hơn. 

Khi công nhận “đời là khổ” chắc chắn người Phật tử có khả năng chịu đựng sự khổ hơn bất cứ ai. Đó cũng như một bác nông phu có khả năng chịu đựng khổ đau hơn bất cứ nhà triết lý hay các nhà tôn giáo nào. Tuy nhiên đạo Phật không phải là một bác nông phu hay một người dân quê nghèo nàn ít kiến thức, mà là một đạo có trí tuệ, hiểu biết LUẬT NHÂN QUẢ, biết rằng mọi vấn đề đều phải có nguyên nhân của nó và phải có cách để cắt đứt những nguyên nhân để không cho xảy ra sự kiện.

Do đó đạo Phậttôn giáo độc nhất trên thế gian này có 4 CHÂN LÝ VI DIỆU (4 Noble Truths) phân tích rõ ràng về sự Khổ, phân tích rõ ràng về Nguyên nhân của Khổ, phân tích rõ ràng về Niết bàn, lúc khổ được tận diệt, và phân tích rõ ràng về Con đường đi đến Niết bàn. Cho nên sự cứu khổ thế gian của đạo Phật giống như sự chửa bênh của một ông bác sĩ thông thái, hiểu rõ về bệnh, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, hiểu rõ sự lành bệnh, và hiểu rõ về cách chửa bệnh. Chứ không phải như những ông lang băm, chữa bệnh mà không biết nguyên nhân của bệnh. Một nhà lãnh tụ nếu có sự hiểu biết về 4 CHÂN LÝ VI DIỆU chắc chắn sẽ không là một kẻ gây ra đau khổ cho thế gian.

4. Sự thật thứ tư là sự thật VÔ NGÃ. Đây là sự thật rốt ráo nhất mà người Phật tử cần giác ngộ để chấm dứt hoàn toàn khổ đau. Nếu các lãnh tụ trên thế giới cũng giác ngộ được sự thật này thì có lẻ chiến tranh sẽ không còn tồn tại trên quả đất này. Vì không còn sự xung đột giữa các phe nhóm quốc gia, hay tôn giáo

Sự thật VÔ NGÃ nói rằng cái gọi là “TA” chỉ là một ảo tưởng (illusion) không thực có. Đây là một sự thật rất khó tin, khó lãnh hội, vì nó trái ngược lại với những hiện tượng “Ngã” mà ai cũng thấy hằng ngày. Sự thật VÔ NGÃ càng khó tin hơn chuyện ngày xưa khi ông Galileo tuyên bố với đức Giáo Hoàng về sự thật “quả đất đi quanh mặt trời” chứ không phải “mặt trời đi quanh quả đất”.

Tuy nhiên, một người trí tuệ có thể giác ngộ sự thật vô ngã qua sự khảo sát chính mình từ ngoài vào trong, bằng tinh thần khách quan của một nhà khoa học. Phương cách khảo sát này đạo Phật gọi là TỨ NIỆM XỨ. Khi thực hành TỨ NIỆM XỨ trước hết ta sẽ khám phá ra rằng “Ta” hoàn toàn được tạo thành bởi những thứ “không ta”. Những thứ “không ta” tạo nên ta và tạo nên sự sống của ta. Ví dụ NƯỚC, ví dụ MẶT TRỜI. Không thực sự có một biên giới giữa “ta” và “không ta”.

Ta thật sự không là chủ nhân của bất cứ thứ gì, ngay cả cái thân xác của mình. Bởi thế dầu ta không muốn bị già thân vẫn cứ già, dầu ta không muốn bị bệnh thân vẫn bệnh, dầu ta không muốn chết, thân vẫn cứ chết. Tất cả những gì gọi là của ta đều là của bên ngoài và luôn luôn biến đổi theo nhân duyên với những thứ bên ngoài khác. Cho nên khi khảo sát cho thật kỹ những gì gọi là của ta thì sẽ giác ngộ ra rằng “Ta không có gì cả”, “Ta không là bất cứ thứ gì cả”. Mà khi ta không là gì cả thì không còn ai chịu sinh, lão, bệnh, khổ.

Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệmTa ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả. Như vậy chính xác thì phải nói rằng “Ta thấy mọi cảm thọ, chứ không phải ta cảm thọ”. Điều đó có nghĩa là “ta thấy sự khổ đau” chứ không phải “ta khổ đau”. Đó là lý do Niết bàn (chấm dứt sự khổ) của đạo Phậtthể hiện diện ngay trong sự Khổ.

Trên quan điểm hòa bình cho thế giới thì một nhà lãnh tụ ít lắm cũng cảm nhận được sự thật VÔ NGÃ qua sự thật: Quả đất chưa hề có lằn ranh ngăn cách giữa các quốc gia. Như vậy thì tại sao loài người lại tự ngăn cách nhau để rồi trở thành ích kỷtranh giành, để sinh ra chiến tranh?

Đúng ra, mọi con người đều phải là “công dân chung của cả thế giới” (world citizen). Tất cả quả đất đều phải là quê hương rộng lớn của ta. Nếu ta không phải là kẻ tội phạm, ta phải có quyền đi lại bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu thân yêu này. “Quyền công dân thế giới” phải được công nhận ít lắm là cho các nhà khoa học, các thương gia, các kỷ nghệ gia, các nhà lãnh tụ, không có tinh thần kỳ thị chủng tộc, vì họ đã làm lợi ích cho toàn thể nhân loại.

Nếu lãnh tụ các quốc giatrí tuệ “Vô Ngã” thì tinh thần ích kỷ quốc gia sẽ giảm bớt, sẽ không lạm dụng sức mạnh của mình để lấn áp các quốc gia khác. Với tinh thần Vô Ngã họ sẽ thương yêuxây đắp hoà bình, an vui, phồn thịnh, cho các dân tộc láng giềng như cho chính dân tộc của mình. Họ có thể dễ dàng đồng thuận với Liên Hiệp Quốc thành lập một chính phủ chung cho toàn thể nhân loại.

Khi cả thế giới đều đã sống chung trong một đại gia đình để không còn biên giới giữa các quốc gia, thì thế giới sẽ hết cảnh các nước lớn tham lam ăn nuốt các nước nhỏ. Các nước nhỏ do đó cũng sẽ hết sân hận thù hằn các nước lớn. Những phí tổn lớn lao cho chiến tranh, cho quân đội, sẽ đem dùng cho các mục tiêu Hòa bình. Toàn nhân loại sẽ cùng cộng tác Trí tuệ tài lực để chấm dứt sự đói nghèo và bệnh hoạn ở trên quả đất này.

Quả đất do đó sẽ thành chốn “địa đàng” cho tất cả mọi dân tộc. Đó là nguồn hạnh phúc lâu bền mà các vị lãnh đạo có thể tạo dựng cho các con cháu sau này. Đó là một nguồn hạnh phúc lớn lao và có ý nghĩa hơn bất cứ một “đế quốc” nào có thể ban cho. Đó là nguồn hạnh phúc thuần khiết không gây ra đau thươnghận thù với các quốc gia khác.

USA, Ngày Phật đản 2011.
GS001

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14154)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39720)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15321)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37343)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40071)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14314)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14841)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42632)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13842)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12685)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11772)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22551)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12515)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12576)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33265)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14840)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12464)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11966)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11938)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12391)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30690)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19374)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11852)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13199)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13203)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30703)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12044)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12729)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29421)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11790)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9995)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35412)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10101)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10053)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27815)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15504)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13687)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9849)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9699)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18333)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9575)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9697)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31751)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12338)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13325)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8832)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9448)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11946)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9077)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29374)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33273)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31245)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37137)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32276)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27110)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8455)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19248)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13018)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant