Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Chương Thứ Mười

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12009)
10. Chương Thứ Mười
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ mười

Thuyết báo thân, báo độ của luận Nhiếp Đại Thừaquan điểm Tịnh độ Phật A-di-đà của Thế Thân

Tiết thứ nhất

Thuyết báo độ của luận Nhiếp Đại Thừa

Trong luận Nhiếp Đại thừa của ngài Vô Trước Asaṅga cũng nêu ra thuyết thế giới Liên Hoa Tạng. Như chương trước đã nói, kinh Hoa nghiêm lấy thế giới Liên Hoa Tạng làm trụ xứ của Tì-lô-giá-na Như Lai. Theo quan điểm của Phiếm thần luận thì toàn vũ trụ là tướng của thế giới kia. Nhưng nay luận Nhiếp Đại thừa nói Tịnh độ của chư Phật đều nương vào Đại bảo liên hoa; đồng thời, cõi đó đầy đủ bảy báu trang nghiêm, gọi là đức tướng của mười tám viên tịnh. báo độ này do thế giới Liên Hoa Tạng cấu thành là hình tướng thụ dụng độ của chư Phật; cho nên không giống với kinh Hoa Nghiêm chỉ lấy Tì-lô-giá-na làm trụ xứ thuyết pháp.

Lại nữa, luận này lấy Tịnh độ làm cõi do nhân nơi nguyện mà ứng báo, là cõi Phật thuần tịnh vô lậu vượt qua ba cõi, cho nên không giống với kinh Hoa nghiêm nói thế giới Liên Hoa Tạng bao hàm tất cả cõi Tịnh, Uế; lấy cõi nước tuyệt đối vô hạn làm phương hướng để khảo sát, tức là thuyết thế giới Liên Hoa Tạng, lúc luận này triển khai thì đã thành ra một loại thuyết chung phổ thông hóa.

Thuyết mười tám viên tịnh là do kinh Giải thâm mậtkinh Phật địa ghi lại có thứ tự, tức là nói thụ dụng báo độ là chỗ của Đức Phật trụ đầy đủ mười tám loại công đức trang nghiêm. Luận Nhiếp Đại thừa ghi lại thuyết này đã được nói trong kinh có một trăm bài kệ thuộc bồ-tát tạng duyên khởi. Liên quan đến kinh Bách thiên, trong luận Nhiếp Đại thừa quyển 15 của ngài Thế Thân, có hai cách giải thích:

1. Trong bồ-tát tạng có riêng một loại kinh Tịnh độ, kinh này có một trăm nghìn bài kệ (tức mười vạn bài kệ), cho nên gọi kinh Bách thiên.

2. Trong kinh Hoa nghiêm cũng có một trăm nghìn bài kệ, cho nên gọi là kinh Bách thiên, nói rộng về tướng Tịnh độ.

Trong đó, lại có biệt danh là kinh Tịnh độ, nhưng chưa chỉ rõ là bộ kinh nào. Kinh Giải thâm mật chỉ có 5 quyển, nên không nói có kinh Tịnh độ riêng. Nhưng Giải thâm mật kinh sớ quyển 1 của ngài Viên Trắc nói kinh này có hai bản quảng và lược. Bản quảng có mười vạn bài tụng, y theo bản lược ghi có một nghìn năm trăm bài tụng, đủ thấy là nói bản quảng, gọi là kinh Bách thiên; vả lại, hiện nay trong phẩm tựa này có văn mười tám viên tịnh, có lẽ ở đây chẳng phải chỉ kinh Giải thâm mật mà nói. Lại nữa, người xưa gọi kinh Hoa nghiêm là kinh có mười vạn bài kệ, trong đó có nói thế giới Liên Hoa Tạng, có lẽ chỉ cho kinh Hoa Nghiêm này tên là kinh Bách thiên thì rất thỏa đáng. Vì thế, căn cứ theo hai kinh này có thuyết thế giới Liên Hoa Tạng của luận Nhiếp Đại thừa để nói về sự cấu thành một loại Tịnh độ của chư Phật Như Lai.

 

Tiết thứ hai

Thuyết mười tám viên tịnh

Nay y theo Trí sai biệt thắng tướng trong luận Nhiếp Đại thừa quyển hạ của ngài Chân Đế dịch, nêu ra danh xưng mười tám viên tịnh:

1. Sắc tướng viên tịnh (Hiển sắc viên mãn, theo tân dịch của ngài Huyền Trang, các mục phía dưới cũng vậy).

2. Hình mạo viên tịnh (Hình sắc viên mãn).

3. Lượng viên tịnh (Phần lượng viên mãn).

4. Xứ viên tịnh (Phương sở viên mãn).

5. Nhân viên tịnh (Nhân viên mãn).

6. Quả viên tịnh (Quả viên mãn).

7. Chủ viên tịnh (Chủ viên mãn).

8. Trợ viên tịnh (Phụ dực viên mãn).

9. Quyến thuộc viên tịnh (Quyến thuộc viên mãn).

10. Trì viên tịnh (Trụ trì viên mãn).

11. Nghiệp viên tịnh (Sự nghiệp viên mãn).

12. Lợi ích viên tịnh (Nhiếp ích viên mãn).

13. Vô bố úy viên tịnh (Vô úy viên mãn).

14. Trụ xứ viên tịnh (Trụ xứ viên mãn).

15. Lộ viên tịnh (Lộ viên mãn).

16. Thừa viên tịnh (Thừa viên mãn).

17. Môn viên tịnh (Môn viên mãn).

18. Y chỉ viên tịnh (Y chỉ viên mãn).

 

1. Sắc tướng viên tịnh: Trong luận này giải thích Tịnh độ của Đức Phậtbảy báu trang nghiêm, ánh sáng chiếu cùng khắp vô lượng thế giới. Tức là thọ dụng báo độ của chư Phật dùng bảy báu vàng, bạc v.v...để trang nghiêm. Mỗi thứ báu đều phóng ra ánh sáng chiếu khắp mọi nơi.

2. Hình mạo viên tịnh: Trong luận này nói, vô lượng cảnh giới, trụ xứ đều trang nghiêm vi diệu. Tức là mỗi cảnh giới, mỗi trụ xứ ở Tịnh độ đều đầy đủ các loại báu trang nghiêm, quí hiếm không có gì sánh bằng.

3. Lượng viên tịnh: Trong luận này nói, giới hạn của cõi nước rộng lớn không thể đo lường. Tức là lãnh thổ của Tịnh độ rất rộng lớn, cũng không thể dùng số do-tuần để đo lường được.

4. Xứ viên tịnh: Trong luận này nói, ra khỏi hành xứ của ba cõi. Tức là nói Tịnh độ ra khỏi Tập đế của hành trong ba cõiKhổ đế của xứ trong ba cõi.

5. Nhân viên tịnh: Trong luận này nói, sanh khởi công đức thiện pháp của xuất xuất thế gian. Tức là Tịnh độ không lấy Tập đế trong ba cõi làm nhân, mà từ bát địa trở lên cho đến Phật địacông năng sanh khởi công đức thiện pháp của xuất xuất thế gian. Trong đó, thiện của phàm phu là thiện thế gian, còn thiện của Nhị thừa là thiện xuất thế, từ bát địa trở lên là thiện xuất xuất thế. Do đó nói là Vô phân biệt căn bản tríVô phân biệt hậu đắc trí đã sanh ra thiện căn tức là thiện pháp của xuất xuất thế.

6. Quả viên tịnh: Trong luận này nói lấy tối thanh tịnh tự tại duy thức làm tướng. Tức là Tịnh độ không lấy Khổ đế trong ba cõi làm thể mà lấy thanh tịnh duy thức trí của bồ-tát và Như Lai làm thể. Trong đó, thanh tịnh là nói vô tướng, vô công dụng của duy thức trí kia. Tự tạitrí tuệ của Phật, bồ-tát đã lìa tất cả chướng ngại vĩnh viễn không thoái lui.

7. Chủ viên tịnh: Trong luận này nói, Như Lai ngồi trấn nhậm. Tức là biểu thị Tịnh độ này được Như Lai ngồi trấn nhậm mãi mãi là bậc thượng thủ tối thắng.

8. Trợ viên tịnh: Là chỉ trụ xứ an lạc của bồ-tát. Tức là bồ-tát lấy Tịnh độ làm trụ xứ an lạc, tự mình thực hành chính pháp, cũng đem chính pháp cảm hóa người khác; đây gọi là trợ giúp Phật, trợ giúp đạo.

9. Quyến thuộc viên tịnh: Trong luận này nói, có vô lượng trời, rồng, dạ-xoa, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người, phi nhân v.v...Tức là quyến thuộc của Như Lai trong Tịnh độ, biểu thị tám bộ chúng này thường ở cõi đó. Nhưng tám bộ chúng này chẳng phải là chúng sanh thật, vì trong cõi nước kia không có, chẳng qua là do Đức Phật đặc biệt biến hóa ra.

10. Trì viên tịnh: Nói giữ được pháp vị hỉ lạc. Tức là nói các vị bồ-tát nhờ pháp vị chân như giải thoát của mười hai bộ kinh Đại thừa nên sanh hỉ lạc, nuôi dưỡng ngũ phần pháp thân[1].

11. Nghiệp viên tịnh: Trong luận này nói, lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh làm dụng. Tức là bồ-tát theo khả năng của mình mà thuyết chính pháp cho phàm phunhị thừa để cho họ tu hành đúng lời Phật dạy, xa lìa bốn đường ác, xa lìa sanh tử, xa lìa hạnh tự độ của nhị thừa.

12. Lợi ích viên tịnh: Nói xa lìa tất cả phiền não, tai nạn. Tức là nghiệp dụng của bồ-tát xa lìa tất cả phiền não Tập đế trong ba cõi và tất cả tai họa Khổ đế trong ba cõi.

13. Vô bố úy viên tịnh: Chẳng phải hành xứ của tất cả ma. Tức là trong Tịnh độ không có ấm ma, phiền não ma, tử ma, thiên ma v.v...cho nên xa lìa tất cả sự sợ hãi.

14. Trụ xứ viên tịnh: Trong luận này nói, trụ xứ của Như Lai đều trang nghiêm thù thắng. Tức là chẳng những tất cả đồ dùng thụ dụng tối thắng không gì sánh bằng, mà đây đều là do nhân hạnh viên mãn phúc đức, trí tuệ của Như Lai chiêu cảm, là trụ xứ của báo thân thù thắng của Như Lai, hiển thị trụ xứ tối thắng trong tất cả trụ xứ.

15. Lộ viên tịnh: Trong luận này nói niệm, tư, hành xuất li, tức là nhập môn Tịnh độ. Ba loại tuệ là văn tuệ (niệm), tư tuệ (tư), tu tuệ (hành) trong pháp Đại thừa, ba tuệ này là con đường qua lại Tịnh độ; cho nên gọi là xuất li.

16. Thừa viên tịnh: Thừa là chỉ cho xa-ma-tha và tì-bát-xá-na. Trong pháp Đại thừa, xa-ma-tha (Śamatha) tức là chỉ. Tì-bát-xá-na (Vipaśyanā) tức là quán, lấy hai pháp này để tu hành. Trong đó, xa-ma-tha có năm trăm loại định, tì-bát-xá-na là như lí như lượng trí; hai pháp này là gọi quán hạnh của Du-già.

17. Môn viên tịnh: Nói đến ba giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Trong pháp Đại thừa, từ ba giải thoát môn này mà vào Tịnh độ. Từ pháp viên tịnh thứ 15 trở xuống lập ba loại thí dụ, tức là ba tuệ văn, tư, tu làm con đường lưu thông. Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na là xe chuyên chở, xe này đi vào ba cửa giải thoát.

18. Y chỉ viên tịnh: Trong luận này nói, tập hợp vô lượng công đức, trang nghiêm Đại liên hoa vương làm y chỉ. Tức là nói Tịnh độy chỉ vào Đại liên hoa vương mà kiến lập thế giới Liên Hoa Tạng. (Đại Chính, 31, 131, hạ).

Ý nghĩa chủ yếu của mười tám viên tịnh là nói Tịnh độ của chư Phật lấy Đại liên hoa vương làm thành. Do Tịnh độ này có công năng sanh ra thiện pháp xuất xuất thế, vượt khỏi hai đế khổ, tập hữu lậu trong ba cõi, nói lấy duy thức trí thanh tịnh tự tại của Phật, bồ-tát làm thể. Cõi nước này rộng lớn không có giới hạn, vô lượng ánh sáng chiếu rực rỡ, trang hoàng rất trang nghiêm. Phật là bậc thượng thủ, thường trấn nhậm nước đó, có bồ-tát theo hầu thường trợ giúp Phật giáo hóa.

Đức Phật hóa ra tám bộ chúng, trời, rồng v.v...làm quyến thuộc đầy khắp trong nước, họ thường ăn pháp vị để duy trì pháp thân tuệ mạng, không sợ bốn ma, sáu căn thụ dụng đầy đủ tất cả đồ dùng hàng ngày, hiển thị cõi nước này là trụ xứ thù thắng nhất trong tất cả trụ xứ. Nhưng phát triển đến Tịnh độ này thì lấy ba tuệ văn, tư, tu làm con đường lưu thông. Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na là xe chuyên chở đi vào cửa ba giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Trong đó, Chủ viên tịnh tức là Phật trang nghiêm. Trợ viên tịnh, Nghiệp viên tịnh, Lợi ích viên tịnh là bồ-tát trang nghiêm. Sắc tướng viên tịnh trở xuống mười một loại là cõi nước trang nghiêm. Lại nữa, ba loại Lộ viên tịnh, Thừa viên tịnh và Môn viên tịnh là nêu ra pháp chung vào Tịnh độ. Loại luận thuyết này, có thể gọi là một loại luận điểm về Tịnh độ có tổ chức.

 

Tiết thứ ba

Tịnh độ quan của ngài Thế Thân

Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá nguyện sanh kệ của ngài Thế Thân căn cứ là theo thuyết của kinh Vô Lượng Thọ, ca ngợi công đức trang nghiêm của Tịnh độ Di-đà, biểu đạt ý nguyện của mình muốn cầu vãng sanh, là sách luận về Tịnh độ duy nhấtẤn Độ.

Luận này đặt ra năm niệm môn là Lễ bái, Tán thán, Tác nguyện, Quán sátHồi hướng làm nhân của hạnh vãng sanh Tịnh độ. Nhân của hạnh này có thể thu hoạch được năm môn công đức là Cận môn, Đại hội chúng môn, Trạch môn, Ốc môn và Viên lâm du hí địa môn. Trong môn Quán sát thì đối tượng quán sát tức là công đức trang nghiêm của Tịnh độ Di-đà, phân biệt thành ba đại loại: cõi nước trang nghiêm có mười bảy loại, Phật trang nghiêm có tám loại, bồ-tát trang nghiêm có bốn loại. Nay kiểm thảo thuyết này, có lẽ luận này đặt cơ sở trên thuyết mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa. Trước tiên, luận này ghi cõi nước trang nghiêm có mười bảy loại. Trong kệ nói về công đức của hình tướng:

Tịnh quang minh đầy đủ

Như kính, nhật, nguyệt luân.

Trong kệ nói về công đức của diệu sắc:

Vô Cấu Quang rực rỡ.

Chiếu sáng khắp thế gian.

Kệ này nói liên quan về công đức quang minh của Tịnh độ Di-đà, tương đương với Sắc tướng viên tịnh thứ nhất trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của các thứ sự vật:

Đủ các tính trân bảo

Đầy đủ diệu trang nghiêm.

Lại nữa, ý nghĩa trong kệ công đức của xúc, ba thứ công đứccông đức của mưa hoa đều là nói các thứ trang nghiêm vi diệuTịnh độ. Kệ này tương đương với Hình mạo viên tịnh thứ hai, trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của lượng:

Cứu cánh như hư không

Rộng lớn không giới hạn.

Kệ này nói cương giới của Tịnh độ rất rộng lớn, tức là Lượng viên tịnh thứ ba trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của thanh tịnh:

Quán tướng thế giới kia

Vượt hơn cả ba cõi.

Kệ nói Tịnh độ ra khỏi hai đế khổ, tập của ba cõi, tương đương với Xứ viên tịnh thứ tư trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của tính:

Chính đạo đại từ bi

Sinh thiện căn xuất thế.

Kệ này giải thích chính đạo của Tịnh độ tức là vô phân biệt trí, đại từ bi tức là hậu đắc trí đã sanh ra thiện căn xuất thế (luận Nhiếp Đại thừa gọi là thiện căn xuất thế), tương đương với Nhân viên tịnh thứ năm.

Trong kệ nói về công đức của quang minh:

Trí tuệ Phật chiếu sáng

Trừ tăm tối thế gian.

Trong kệ nói về công đức của diệu thanh:

Tiếng Phạn ngộ sâu sắc

Vi diệu khắp mười phương.

Lại nữa, trong kệ nói về công đức của chủ:

Chính giác A-di-đà

Pháp vương khéo trụ trì.

Các câu kệ này đều tán thán công đức của pháp vương A-di-đà, tương đương với Chủ viên tịnh thứ bảy. Lại nói pháp vương khéo trụ trìhiển thị Tịnh độ lấy Như Lai làm chủ thể trụ trì. Trong đó, cũng có bao hàm ý nghĩa Quả viên tịnh thứ sáu.

Trong kệ nói về công đức của quyến thuộc:

Chúng thanh tịnh của Phật

Sanh từ hoa Chính Giác.

Kệ này nói tám bộ chúng quyến thuộc của Như Lai đều do Phật hóa ra, tương đương với Quyến thuộc viên tịnh thứ chín.

Trong kệ nói về công đức của thọ dụng:

Ưa thích vị Phật pháp

Tam-muội làm thức ăn.

Kệ này nói lấy pháp vị làm thức ăn, nuôi dưỡng pháp thân, huệ mạng, tương đương với Trì viên tịnh thứ mười.

Trong kệ nói về công đức không có các nạn:

Thân, tâm lìa phiền não

Luôn luôn được an lạc.

Kệ này nói thân, tâm của chúng sanhTịnh độ không có khổ đau, xa lìa tất cả phiền não, tai họa, tương đương với Lợi ích viên tịnh thứ mười hai.

Trong kệ nói về công đức của đại nghĩa môn:

Thiện căn của Đại thừa

Không có người bị chê

Người nữ và thiếu căn

Nhị thừa chủng chẳng sanh.

Kệ này nói Tịnh độ chỉ là thế giới căn cơ của Đại thừa, thuần là nơi bồ-tát cư trú. Nếu người nữ, người thiếu căn, Nhị thừa và những người bị chê bai đều không sanh về cõi này. Điều này trái với ý nghĩa Quả viên tịnh thứ sáu, Trợ viên tịnh thứ tám cho đến nói rộng ra là nghĩa Vô bố úy viên tịnh thứ mười ba.

Trong kệ nói về công đức tất cả sự mong cầu đều được đầy đủ:

Điều chúng sanh ước muốn

Được đầy đủ tất cả.

Kệ này chỉ Tịnh độ Di-đà đầy đủ đồ dùng tốt đẹp nhất khôngsánh bằng cho sáu căn của chúng sanh thụ dụng, nguyện vọng của tất cả chúng sanh đều được đầy đủ, tương đương với Xứ viên tịnh thứ mười bốn.

Kế đến là tám thứ trang nghiêm của Đức Phật, nói về công đức thành tựu tự lợi, lợi tha của Như Lai, tức là giải thích tỉ mỉ Chủ viên tịnh thứ bảy trong mười tám viên tịnh; đồng thời, nói công đức của chủ, công đức của quang minhcông đức của diệu thanh trong cõi nước trang nghiêm cũng đều là tán thán công đức trang nghiêm của Đức Phật. Mười một loại này đều thuộc về trang nghiêm của Đức Phật.

Sau cùng, bốn thứ trang nghiêm của bồ-tát, là nói bồ-tát ở Tịnh độ Di-đà ứng hóa nhiều loại. Các vị bồ-tát tu hành thật sự thường đi khắp thế giới trong mười phương, giáo hóa chúng sanh, diệt trừ khổ nạn cho họ. Lại nữa, bồ-tát trổi âm nhạc, rải hoa, dâng y phục cõi trời cúng dường chư Phật. bồ-tát vào thế giới không có Đức Phật, trụ trì Phật pháp, tức là tương đương với nghĩa Trợ viên tịnh thứ tám, Nghiệp viên tịnh thứ mười một, Lợi ích viên tịnh thứ mười hai trong mười tám viên tịnh. Căn cứ vào lời giải thích trên đây thì Vãng sanh luận nói hai mươi chín loại trang nghiêm, thật ra là nói tỉ mỉ về nghĩa của mười bốn viên tịnh trong mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa.

Lại nữa, Tác nguyện môn trong năm niệm môn tức là xa-ma-tha; Quán sát môn là tì-bát-xá-na. Luận này lấy hai môn này làm pháp vãng sanh Tịnh độ, không còn nghi ngờkế thừa thuyết viên tịnh thứ mười sáu trong mười tám viên tịnh. Tác nguyện có nghĩa là xa-ma-tha, luận này nói: “Thế nào là tác nguyện? Tâm thường tác nguyệnnhất tâm chuyên niệm, cuối cùng vãng sanh về nước An Lạc” thì biết nghĩa của xa-ma-tha là muốn tu hành đúng pháp xa-ma-tha. Quán sát gọi là tì-bát-xá-na, luận này nói: “Thế nào là quán sát? Dùng trí tuệ quán sát, chính niệm quán sát công đức trang nghiêm của Tịnh độ kia” thì biết tì-bát-xá-na là vì muốn tu hành đúng pháp tì-bát-xá-na. Lại nữa, xa-ma-tha, tì-bát-xá-na là chỗ nương của ba tuệ văn, tư, tu. Vì thế, trong hai môn Tác nguyệnQuán sát, bao hàm nghĩa Lộ viên tịnh thứ mười lăm trong mười tám viên tịnh.

Lại nữa, thực hành theo năm niệm môn của luận này thì thành tựu năm loại công đức, từ cận môn cho đến viên lâm du hí môn, tức là nói nghĩa xuất và nhập của Tịnh độ, tương đương với nghĩa Môn viên tịnh thứ mười bảy trong mười tám viên tịnh. Từ trạch môn thứ ba trở xuống, tu xa-ma-tha, tịch tĩnh tam-muội được nhập thế giới Liên Hoa Tạng, cho nên Tịnh độ Di-đà được gọi là thế giới Liên Hoa Tạng, là tương đương với Y chỉ viên tịnh thứ mười tám. Vì thế, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân là căn cứ theo ý nghĩa mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa, sửa đổi thành một pháp môn trang nghiêm Tịnh độ Di Đàvãng sanh này.

 

Tiết thứ tư

Ý nghĩa chân thật của thế giới Hoa Tạng

Lại nữa, Tịnh độ Di-đà có liên quan đến Y chỉ viên tịnh thứ mười tám, luận Nhiếp Đại thừa ghi:“Được vô lượng công đức tụ trang nghiêmy chỉ Đại liên hoa vương”. Trong luận Phật địa kinh quyển 1 ghi: “Như đất đai nương vào phong luânduy trì; hoặc như cung điện ở thế gian, xây dựng từ mặt đất, Tịnh độ Di-đà vô lượng công đức trang nghiêm được kiến lập bởi Đại bảo liên hoa vương”. Kinh Hoa nghiêm cũng đồng ý nghĩa này, lấy Tịnh độ từ thực chất hoa sen mà cấu thành. Nhưng trong luận Nhiếp Đại thừa quyển 15 của ngài Thế Thân, chỉ ra hai cách giải thích:

1. Dùng hoa senthực chất hoa sen là do cảm ứng nguyện lực của Như Lai hiện thành.

2. Pháp giới chân như của Đại thừa nói dụ như hoa sen, vì hoa sen ở trong bùn lầy, nhưng không bị bùn lầy làm ô nhiễm; giống như pháp giới chân như ở trong thế gian, nhưng không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Lại nữa, hoa sen có bốn đức tính khả ái: hương thơm, tinh khiết, mềm mại, đáng yêu; dụ cho bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của pháp giới chân như.

Hai cách giải thích trên đây, người đời sau cho rằng thế giới Liên Hoa Tạng không phải thực chất hoa sen cấu thành, mà hiển hiện trên thể tính của pháp giới chân như, có lẽ là phát huy ý nghĩa xưa nay của thế giới Hoa Tạng.

Luận Vãng sanh nói cõi nước Phật Vô Lượng Thọ trang nghiêm là tướng cảnh giới vi diệu đệ nhất nghĩa đế. Lại nữa, thành tựu công đức trang nghiêm có ba loại, hai mươi chín câu, nếu lược nói thành nhất pháp cú . Nhất pháp cú còn gọi là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là trí tuệ chân như, pháp thân vô vi. Đây là nói Tịnh độ Di-đà công đức trang nghiêm là tướng cảnh giới vi diệu, đệ nhất nghĩa đế, tức là nói quy về một pháp của trí tuệ chân thật của Như Laipháp thân. Điều này ban đầu trong Trí sai biệt thắng tướng, luận Nhiếp Đại thừa quyển hạ, ghi: “Thụ dụng thân hiển hiện các cõi của chư Phật và nơi các bậc đại nhân tập hợp cư trú”. Thụ dụng thân này lấy pháp thân làm y chỉ. Nói thụ dụng báo thân là nhân của Tịnh độ chư Phật và bồ-tát Đại thừa thụ dụng pháp lạc. Nhưng thụ dụng thân này y chỉpháp thân cũng rất phù hợp với thuyết nhất pháp cú hiện nay. Ngài Thế Thân chủ yếu lấy Tịnh độ làm cụ thể hóa pháp giới chân như. Pháp thân vô vi, trí tuệ chân thật của Như Lai trở thành thể của Tịnh độ. Cho nên, công đức trang nghiêm này chẳng phải tướng hữu vi hư vọng của tục đế thế gian mà phải thấy là cảnh giới đệ nhất nghĩa đế vi diệu. Đây cũng chính là đem Di-đà Tịnh độ quan phát triển đến giai đoạn cảnh giới cao nhất.

------------------------

 [1] Ngũ phần pháp thân五分法身(Cg: Vô lậu ngũ uẩn; S: asamasama-pañca-skandha): Năm thứ công đức đầy đủ trong tự thể của Phật và a-la-hán. Đó là: một, giới thân; hai, định thân; ba, huệ thân; bốn, giải thoát thân; năm, giải thoát tri kiến thân.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9957)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20508)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34408)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9633)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9796)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20447)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8752)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8862)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12108)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22997)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8995)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9259)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9894)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10616)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12475)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9334)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9193)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9318)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10455)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21997)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9534)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10189)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8830)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8624)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9132)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8612)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9445)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8355)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8469)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10186)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23627)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9572)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8338)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8526)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7971)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8796)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10059)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8623)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30057)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24164)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9270)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9633)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9069)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28203)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23699)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8884)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9657)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9342)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9643)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30893)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27120)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32709)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33996)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58676)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10654)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13939)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14207)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10761)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28150)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23273)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant