Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Chương Hai Mươi

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12926)
20. Chương Hai Mươi
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ hai mươi

Thuyết nguyện lực hồi hướngtín tâm chính nhân

Tiết thứ nhất

Chủ trương của ngài Thân Loan

Ngài Chứng Không đề xướng vãng sanhChính giácđồng thời thành tựu. Chúng sanh vãng sanh cần phảihạnh nguyện. Điều này với Như Lai thành Đẳng chính giácđồng thời thành tựu. Khi chúng ta nghe mà tâm lãnh hội thì nhất định vãng sanh.

Nhưng ngài Thân Loan tiến lên một bước khởi xướng thuyết nguyện lực hồi hướng, Như Lai đã thành tựu tín hạnh của chúng sanh và cũng hồi thí[1] cho chúng ta. Ngài nhận định lấy tính tích cực của Như Lai mà khởi xướng luận điểm tuyệt đối tha lựcbài trừ hoàn toàntình tự lực của chúng sanh, lấy tín tâm tha lực làm nhân chân thật của báo độ. Trong một môn Tịnh độ vốn nói có sự sai biệt của tự lực, tha lực, phương tiệnchân thật. Tức là trong ba bộ kinh Tịnh độ, Quán kinh nói hai hạnh tán thiện, định thiện, tự lựctạp thiện mà được vãng sanh; đây gọi là giả môn trong phương tiện. Hành giả y theo pháp này tu hành thì vãng sanh về biên địa Giải Mạn.

Lại nữa, kinh A-di-đà nói tự lực niệm Phật mà được vãng sanh, đây gọi là chân môn trong phương tiện. Người y theo pháp này tu hành thì vãng sanh vào Nghi Thành, Thai Cung.

Kinh Đại Vô Lượng Thọ nói Như Lai chọn pháp bản nguyện tha lực vãng sanh; đây gọi là chân thật hoằng nguyện môn. Người y theo pháp này tu hành thì có thể vãng sanh về báo độ chân thật. Ngoài ra còn có thuyết phối hợp ba nguyện, ba cơ, ba vãng sanh v.v…: Nguyện thứ mười chín phối hợp với Quán kinh thuộc căn cơ tà định tụSong lâm thụ hạ vãng sanh. Nguyện thứ hai mươi phối hợp với kinh A-di-đà thuộc căn cơ bất định tụNan tư nghị vãng sanh. Nguyện thứ mười tám phối hợp với kinh Vô Lượng Thọ thuộc Chính định tụ vãng sanh, gọi là Nan tư nghị vãng sanh. Người nào có được tín tâm tha lực này thì sanh về báo độ chân thật. Người vận dụng ba nghiệp tự lực thì sanh về phương tiện hóa độ. Nghĩa là giáo pháp các tông phái khác đã lập là Tiệm giáo. Hoành xuấttự lực phương tiện giáo, đối với nghĩa tự mình đã lập là Đốn giáo. Hoành siêu là pháp tha lực chân thật, hơn nữa còn khen mình mà chê người khác.

Tiết thứ hai

Thuyết nguyện lực hồi hướng

Ngài Thân Loan nói nguyện lực hồi hướng của Như Lai. Hồi hướng chia làm hai loại là Vãng tướng và Hoàn tướng. Ngoài ra, trong Vãng tướng hồi hướng có bốn pháp chân thật là Giáo, Hạnh, Tín, Chứng. Nguyện thứ mười bảy ‘xưng danh chư Phật’ là Hạnh chân thật. Nguyện thứ mười tám ‘chí tâm tín nhạo’ là Tín chân thật. Nguyện thứ hai mươi mốt ‘tất chí diệt độ’ là Chứng chân thật. Nhân đó, khai hiển ba pháp Hạnh, Tín, Chứng mà kinh Đại Vô Lượng Thọ gọi là Giáo chân thật. Lại lấy Nhất sanh bổ xứ của nguyện thứ hai mươi hai đối lại với Giáo, Hạnh, Tín, Chứng của Vãng tướng hồi hướng để hiển thị sự lợi íchgiáo hóa lợi tha của Hoàn tướng hồi hướng. Vì thế, hoặc hạnh, hoặc tín, hoặc nhân, hoặc quả, hoặc vãng, hoặc hoàn, không có sự việc nào mà không phải hồi hướng thành tựu tâm nguyện thanh tịnh của Như Lai.

Trong Giáo hạnh tín chứng quyển 1 của ngài Thân Loan trứ tác giải nói: “Theo Tịnh độ chân tông có hai loại hồi hướng là Vãng tướng và Hoàn tướng. Vãng tướng hồi hướng gọi là Giáo, Hạnh, Tín, Chứng chân thật. Lại ở ba kinh của Tịnh độ trong văn hiến vãng sanh, Đại kinh nói vãng sanhtuyển trạch bản nguyện của Như Lai, bất khả tư nghị nguyện hải, đây là tha lực. Tức là do nguyện nhân niệm Phật vãng sanh này, chắc chắn được nguyện quả ‘tất chí diệt độ’”. Đời này an trụ ở vị chính định tụ thì nhất định vãng sanh về báo độ chân thật. Đây là nhân chân thật Vãng tướng hồi hướng của Di-đà Như Lai, vì có khả năng chứng đắc Vô thượng Niết-bàn, cũng là vãng sanh Đại kinh đã nói, còn gọi là Nan tư nghị vãng sanh. Theo Vãng tướng hồi hướng của Như Lai mà nói hạnh nghiệp chân thật, tức là hiển thị bi nguyện của xưng danh hiệu chư Phật. Tín tâm chân thật tức là hiển thị bi nguyện của niệm Phật vãng sanh. Chứng quả chân thật tức là hiển thị bi nguyện của ‘tất chí diệt độ’.

Tịnh độ luận nói về Hoàn tướng hồi hướng: “Vì lấy bản nguyện lực hồi hướng cho nên gọi là môn thứ năm; đây là Hoàn tướng hồi hướng”. Bi nguyện của ‘nhất sanh bổ xứ’ cũng chỉ cho điều này. Nhân, quả, tín, hạnh của chúng sanh đều do Như Lai thành tựu, lại đem nó hồi thí cho hàng phàm phu chúng ta. Vì thế, chúng ta không cần vận dụng công phu ba nghiệp tự lực, chỉ cần một phen quay về bản nguyện tha lực của Phật Di-đà và cung kính vâng theo, nhờ Ngài ban cho thì đủ rồi.

 

Tiết thứ ba

Giải thích ba tín

Như trên đã nói, ngài Thân Loan lấy Quán kinh làm thuyết phương tiện giả môn. Vì thế, ngài nói ba tâm gọi là tâm định, tán, tự lợi đều khác biệt, bài xích tâm này bất quá chỉ là nhân của biên địa Giải Mạn. Trái lại, “chí tâm, tin nhạo, dục sanh về nước Ta” trong nguyện thứ mười tám, gọi là ba tín lợi tha chân thật của Như Lai; đây là nhân chân thật được sanh về báo độ.

Trong Giáo hạnh tín chứng quyển 3 giải thích ‘chí tâm’, nguyện thứ mười tám nói: “Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đều là nhơ xấu ô nhiễmtâm không thanh tịnh; giả dối, nịnh hót là tâm không chân thật. Vì thế, Như Lai thương xót chúng sanh chìm trong biển khổ hàng triệu năm không thể nghĩ bàn. Khi Ngài tu hạnh Bồ-tát đã tu ba nghiệp trong từng mỗi niệm, mỗi sát na đều thanh tịnh, đều là chân tâm. Vì Như Lai thành tựu tâm chân thật thanh tịnh, đạo đức cao tột, viên dung vô ngại, không thể nghĩ bàn, không thể ca ngợi, không thể nói. Lấy chí tâm của Như Laihồi thí cho các hữu tình có đủ tất cả phiền não, ác nghiệp, tà trí. Đây là hiển hiện tâm chân thật lợi tha, cho nên gọi là không có sự nghi ngờ xen lẫn trong đó”.

Kế đến, giải thích ‘tín nhạo’. ‘Tín nhạo’ tức là tin tâm rộng như biển của Như Lai đầy đủ đại bi viên dung vô ngại, không có sự nghi ngờ xen lẫn ở trong đó, cho nên gọi là tín nhạo. Lại lấy chí tâm hồi hướng lợi tha làm thể của tín nhạo. Nhưng từ vô thỉ đến nay, tất cả chúng sanh lưu chuyển trong biển vô minh, bị các khổ trói buộc nên không có tín nhạo thanh tịnh. Bởi vì, không có tín nhạo chân thật nên khó mà gặp được công đức vô thượng, tín tâm thanh tịnh tối thắng cũng khó được.

Trong tất cả thời, tâm tham ái có thể làm nhiễm ô tâm thiện, tâm ganh ghét thường đốt cháy pháp tài. Chúng ta phải tu hành gấp rút như lửa cháy đầu, gọi chung là thiện tạp độc, cũng gọi là hạnh hư giả siểm ngụy. Lấy thiện hư giả tạp độc này muốn sanh về cõi Vô Lượng Quang Minh thì chắc chắn không được. Vì sao? Vì khi Như Lai hành đạo Bồ-tát đã tu ba nghiệp, cho đến một niệm, một sát na cũng không có sự nghi ngờ xen lẫn. Tâm này tức là tâm đại bi của Như Lai; cho nên chắc chắn là nhân của chính định báo độ. Như Lai thương xót chúng sanh chịu nhiều khổ não nên đem tín tâm thanh tịnh vô ngại rộng lớn hồi thí cho chúng sanh trong ba cõi, đây gọi là tín tâm lợi tha chân thật.

Lại nữa, giải thích ‘dục sanh’. ‘Dục sanh’ là lời Như Lai kêu gọi chúng sanh, tức là lấy tin ưa chân thật làm làm thể của ‘dục sanh’. Thật vậy, không phải chỉ cho sự hồi hướng của tự lực tán thiện, định thiện của phàm thánh Đại, Tiểu thừa, cho nên nói không hồi hướng. Nhưng chúng sanh ở trong thế giới nhiều như số vi trần đang lưu chuyển trong biển phiền não, chìm nổi trong biển sanh tử, không có tâm hồi hướng chân thật, không có tâm hồi hướng thanh tịnh; vì thế, Như Lai thương xót tất cả chúng sanh bị khổ não. Khi hành đạo Bồ-tát, Ngài đã tu ba nghiệp, cho đến một niệm, một sát na đều lấy hồi hướng làm đầu, được thành tựu tâm đại bi, lấy tâm ‘dục sanh’ chân thật lợi tha hồi hướng cho chúng sanh trong ba cõi. ‘Dục sanh’ tức là tâm hồi hướng, như vậy tức là tâm đại bi, cho nên nói không có sự nghi ngờ xen lẫn.

Lấy ba tâm là ‘chí tâm’, ‘tín nhạo’, ‘dục sanh’ làm thành ba tín chân thật lợi tha của Như Lai. Tức là Như Lai vì hàng phàm phu chúng ta, trong tâm cấu uế ô nhiễm tâm không thanh tịnh, không có ‘tín nhạo’ thanh tịnh, không có tâm hồi hướng thanh tịnh, lại giả dối nịnh hót, không có tâm chân thật, không có ‘tín nhạo’ chân thật, không có hồi hướng chân thật; cho nên từ vô thỉ đến nay trôi chìm trong biển sanh tử, lưu chuyển vô cùng. Đức Phật thấy như vậy rất thương xót chúng sanh bị sanh tử trong thời gian dài vô hạn. Khi Ngài tu hành đạo Bồ-tát, cho đến một niệm, một sát na đều thanh tịnh chân thật, không có sự nghi ngờ xen lẫn, lại lấy hồi hướng làm đầu mới được thành tựu tâm đại bi, lấy điều đó đều hồi thí hết cho hàng phàm phu chúng ta.

Trong đây lấy tâm chân thật lợi tha của Như Lai làm ‘chí tâm’, lại lấy ‘chí tâm’ lợi tha hồi hướng làm thể của ‘tín nhạo’, tức là thuyết ngài Long Khoan, Chứng Không v.v…đã đề xướng, nay ngài Thân Loan cũng thừa nhận thuyết này. Nhưng ‘dục sanh’ là lời Như Lai kêu gọi; còn trong ‘chí tâm’ v.v…đều là không có tâm nghi ngờ xen lẫn, tức là chỉ có một mình ngài Thân Loan giải thích.

Lại nữa, Quán kinh huyền nghĩa phần trong Giáo hạnh tín chứng quyển 2 giải thích “Nam mô”: Nói Nam mô là nghĩa quy mạng. Quy là nghĩa cùng tột. Mạng là nghiệp, nghĩa lôi kéo. Cho nên quy mạng là mệnh lệnh của bản nguyện kêu gọi. Nói phát nguyện hồi hướngNhư Lai đã phát nguyện hồi thí cho chúng sanh đã thực hành tín tâm, nói sự thực hành này tức là tuyển trạch bản nguyện. Quy mạng này cũng là lời kêu gọi của bản nguyện. Phát nguyện hồi hướngphát nguyện hồi thí của Như Lai. Do đó thành lập thuyết nguyện lực hồi hướng. Nhưng đây là cách giải thích đặc biệt chủ quan của ngài Thân Loan.

 

Tiết thứ tư

Tín tâm chính nhântư tưởng bản giác

Bởi vì thuyết nguyện lực hồi hướng vốn xuất xứ từ Hồi hướng môn trong Vãng sanh luận, vì luận ấy có nói: “Thế nào là hồi hướng? Là không xả bỏ tất cả chúng sanh bị khổ não, tâm thường phát nguyện, lấy hồi hướng làm đầu mà được thành tựu tâm đại bi”.

Lại nữa, trong ngũ môn[2] công đức lấy bản nguyện lực hồi hướng cho nên ám chỉ đây là môn thứ năm. Nhưng ý của Vãng sanh luận đem tu hành vãng sanh Tịnh độliệt kê ra có năm niệm môn. Hồi hướng đều là từ chúng sanhsanh khởi hồi hướng. Vì thế, thuyết Vãng tướng hồi hướngHoàn tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan cũng là giải thích nghĩa hồi hướng trong Vãng sanh luận. Trong đó, cố nhiên có nghĩa do chúng sanhhồi hướng. Nhưng ‘chí tâm tín nhạo’ thuộc bản nguyện của ngài Thân Loan, phát nguyện quy mạng trong Huyền nghĩa phần, bản nguyện lực hồi hướng trong Vãng sanh luận, Vãng tướng hồi hướngHoàn tướng hồi hướng trong Vãng sanh luận chú, không những nói rõ đến tâm hạnh của chúng sanh đã phát, từ văn hồi hướng mà chuyển qua giải thích ba tín của Như Lai, là lời kêu gọi của Như Lai. Tâm nguyện của Như Lai thanh tịnh nên hồi hướng thành tựu đều là quy về một phương diện Như Lai. Điều này được cho là nền tảng thuyết “pháp môn bản giác” của phái Huệ Tâm thuộc tông Thiên Thai.

Giáo hạnh tín chứng quyển 3 dẫn chứng văn ‘tất cả chúng sanh đều có Phật tính’ trong kinh Niết-bàn; cho nên nói tất cả chúng sanh chắc chắn đều có đại tín tâm, vì thế nói tất cả chúng sanh đều có Phật tính. Đại tín tâm tức là Phật tính, Phật tính tức là Như Lai.

Tịnh độ hòa tán nói: “Tín tâm hoan hỉ đều là Như Lai”. Đại tín tâmPhật tính, Phật tính gọi là Như Lai, tín tâm tức là Phật tính, Phật tính tức Như Lai. Điều này giống với ngài Hạnh Tây nói vô thỉ bản giác Như Lai cùng với Phật tính sẵn có đủ của chúng ta hoàn toàn không có sai khác. Hiểu rõ ý này thì cùng với thuyết một niệm chắc chắn vãng sanh đồng một ý nghĩa, không còn nghi ngờ. Đây là kế thừa tư tưởng bản giác.

Ngài Thân Loan cũng lập Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà. Di-đà đã thành Phật cách đây mười kiếp là Tích môn Di-đà; Di-đà thật đã thành Phật từ lâu xa là Bản môn Di-đà. Việc này trong Tịnh độ hòa tán của ngài Thân Loan nói: “Di-đà thành Phật đến nay đã là mười kiếp, kì thật Ngài đã sớm thành Phật từ số kiếp lâu xa như số vi trần. Lại nữa, Phật A-di-đà thật đã thành Phật từ lâu vì độ phàm ngu năm trược nên Ngài ứng hiện làm Phật Thích-ca Mâu-ni ở thành Dà-gia”. Từ trong văn này có thể hiểu rõ ý này. Chẳng những như thế mà trong Giáo hành tín chứng quyển 5 nói, Di-đà chia ra có chân và giả.

Vãng sanh luận nói Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Laichân Phật. Trong Quán kinh nói Di-đà của chân thân quánphương tiện hóa thân. Lại dẫn chứng thuyết trong văn một niệm, nhiều niệm, dùng phương tiện tức là hiển bày hình tướng, lấy phương tiện trì danh để chỉ ra chúng sanh chính là Phật A-di-đà. Như Lai này là quang minh, quang minhtrí tuệ, trí tuệbiểu tượng ánh sáng. Trí tuệ vô hình nên gọi là Bất Tư Nghị Quang Phật. Như Lai này cùng khắp mười phương vi trần thế giới, cho nên gọi là Vô Biên Quang Phật. Nhưng bồ-tát Thế Thân nêu danh hiệu Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai, cũng tức là chỉ ra cho thấy ý nghĩa của Bản môn và Tích môn.

Ngài Thân Loan tuy chưa biểu thị rõ Bản môn Di-đà đồng thể với hàng phàm phu chúng ta, nhưng Phật tính của chúng ta với Như Lai là đồng một tính cách. Như Lai này nhất định là chỉ vô thỉ bản giác Như Lai. Nếu như vậy thì Phật Di-đà cũng là vô thỉ bản giác Như Lai của hàng phàm phu chúng ta; vì thế chắc chắn thừa nhận vô thỉ bản giác Như Lai của chúng ta với Bản môn Di-đà đồng là một thể, không hai, không khác.

 

Tiết thứ 5

Tín tâm là nhân chân thật chứng Đại niết-bàn

Ngài Thân Loan lấy tín tâm làm nhân chân thật chứng Đại niết-bàn, nhân chân thật này đắc thành Chính giác ngay trong đời này và có khả năng chứng đắc quả Đại niết-bàn. Chính tín kệ của ngài Thân Loan nói: “Bản nguyện, danh hiệuchính định nghiệp, lấy nguyện chí tâm, tín nhạo làm nhân thành Đẳng chính giác, chứng Đại niết-bàn, chắc chắn thành tựu nguyện diệt độ; nếu có thể phát một niệm tâm ưa thích thì đoạn trừ phiền não, chứng đắc Niết-bàn”.

Giáo hạnh tín chứng quyển 4 nói: Phàm phu có đủ phiền nãochúng sanh sanh tử tội ác, nếu có được tâm hành Vãng tướng hồi hướng thì liền nhập vào số chúng Đại thừa chính định tụ. Trụ chính định tụ cho nên ‘tất chí diệt độ’.

Cũng trong sách này quyển 3 nói: “Đại sĩ Di-lặc đạt đến kim cang tâm Đẳng giác, ở tam hội Long Hoa chứng đắc quả vị Vô thượng giác. Chúng sanh niệm Phật thì có thể vượt ngang qua kim cang tâm, một niệm lúc lâm chung chứng đại Niết-bàn”, đều chỉ thuyết này.

Phật tính sẵn có tức là bản giác Như Lai mà hàng phàm phu chúng ta vốn sẵn có từ vô thỉ, không hiểu lí này, tức là trôi chìm trong biển sanh tử. Nếu nghe được lí này mà có tâm sở đắc thì tự mình ở trong một niệm tỉnh giác, không đợi vãng sanh Tịnh độ mà thân này đã mang tư cách thành Phật. Đây có thể nói người này không phải là người không đoạn phiền não mà đắc Niết-bàn chăng? Không đúng! Phàm phu đầy đủ phiền não, chỉ nhờ công đức một niệm tín giải thì làm sao giống như bồ-tát Di-lặc được? Cho nên có thể lúc lâm chung mà liền chứng Đại niết-bàn; vì đây là chủ trương của ngài Thân Loan chắc chắn giống với ngài Hạnh Tây, lấy tư tưởng bản giác làm quan điểm cơ bản.

Chúng sanh là vô thỉ bản giác Như Lai, cho nên chúng sanh cùng Bản môn Di-đà là không hai, không khác. Chí tâm, tín nhạo và dục sanh của chúng sanh là ba tín lợi tha chân thật của Như Lai. Vãng tướng hồi hướngHoàn tướng hồi hướng của chúng sanhhồi hướng thành tựu của Như Lai, cho đến trách nhiệm của chúng sanh đều quy kết về lí thể của Như Lai.

Tiết thứ sáu

Tha lực tuyệt đối tức là tự lực tuyệt đối

Nhìn từ lập trường khuyến hóa của pháp môn Tịnh độ; hạnh, tín, nhân, quả của chúng sanh đều là Như Lai hồi hướng thành tựu. Giả sử lấy Như Lai làm đối tượng khách quan, tuy gọi là luận điểm tha lực tuyệt đối, nhưng nếu Như Lai thuộc về bản giác của chúng ta thì luận điểm tha lực tuyệt đối lại trở thành luận điểm tự lực tuyệt đối.

Ba tâm: ‘chí tâm’, ‘tín nhạo’ và ‘dục sanh’ là nhờ vào sự hồi thí của Như Lai. Bất kì ở trường hợp nào, tín tâm là do hành giả tự phát, chẳng phải do người khác ban cho. Ngài Thân Loan nói tất cả chúng sanh đều có Phật tính, cho nên chắc chắn sẽ đắc đại tín tâm.

Lại nữa, tín tâm là nhân chân thật chứng đại Niết-bàn, khai phát chính nhân Phật tính vốn có đầy đủ của chúng ta, nên gọi là đại tín tâm. Nếu nói ngược lại, theo thực tế thì tín tâm là do Như Lai ban cho, là Như Lai bình đẳng hồi thí tất cả, chúng sanh sở hữu nhất thời nhận lĩnh tín tâm sẽ là nhất thời vãng sanh, lại chắn chắn là nhất thời thành Phật. Nhưng hiện nay cũng nghe nói đến sự trước sau sanh khởi bản nguyện, nhưng chưa thể sanh khởi tâm tín giải, muốn biết có tín thụ hay không thì phải đợi cơ duyênthiên tư. Nhìn từ quan điểm này thì luận điểm tha lực tuyệt đối không được thành lập.

Tịnh độ tông danh mục vấn đáp quyển trung của ngài Thánh Quang nói: “Tuy chưa đủ thiện căn tự lực nhưng nương theo thuyết tha lực thì có thể vãng sanh. Tất cả hàng phàm phu hiện nay không nên ở lại uế độ mà đều nên vãng sanh về Tịnh độ”.

Lại nữa, trong Thiện Đạo đại ý của ngài Lương Biến nói: “Mặc dù chúng sanh còn thiếu tâm lực, nhưng nhất hướng dùng tha lực mà được vãng sanh”. Tất nhiên, hết thảy chúng sanh đều được vãng sanh, tức là tất cả chúng sanh đều được thành Phật. Nhưng hiện tại chúng sanh vẫn còn mê muội chưa tỉnh ngộ, nên biết cần phảiPhật lựctâm lực của chúng sanh hai bên tương ưng, hòa hợp mới được thành tựu. Thuyết này là luận điểm thỏa đáng.

 

Tiết thứ bảy

Nguồn gốc của thuyết giáo hành tín chứng

Ngài Thân Loan lại lấy bốn pháp giáo, hành, tín, chứng để an lập cương mục của thuyết này, được cho là căn cứ vào pháp môn khẩu truyền của phái Huệ Tâm. Phái Huệ Tâm an lập giáo, hành, chứng thành ba lớp, bảy khẩu truyền, phái này truyền thừa rất mạnh và thật sự nổi tiếng.

Bảy khẩu truyền: nhất tâm tam quán, nghĩa tâm cảnh, đại ý của Chỉ quán, quảng truyền bốn việc lớn của nghĩa sâu sắc trong kinh Pháp hoa, ba thân của Viên giáo, nhân quả hoa sen và lược truyền ba việc lớn của nghĩa Thường tịch quang độ. Bảy pháp môn quảng và lược này đều có ba lớp khẩu truyền giáo, hành, chứng.

Trong Thiên Thai Pháp Hoa tông sanh tri diệu ngộ quyết của ngài Tối Trừng trứ tác nói: “Quán môn của nhất tâm tam quán thông suốt cả ba đạo: giáo, hành, chứng, thì có nhất tâm tam quán của giáo đạo, nhất tâm tam quán của hành đạonhất tâm tam quán của chứng đạo”.

Lại nữa, Tu Thiền tự tương truyền tư chú nói: “Nhất niệm tam thiên[3] có ba lớp giáo, hành, chứng sai khác là nhất niệm tam thiên của giáo phần, nhất niệm tam thiên của hành phần, nhất niệm tam thiên của chứng phần”.

Tam đại chương sớ thất diện tương thừa khẩu quyết nói: “Đại ý của Chỉ quánbuông xả lời nói mà vẫn dùng lời nói, ở chỗ tự tính quả hải[4], miễn cưỡng kiến lập giáo, hành, chứng. Cũng tức là từ trên phần của chính mình mà lập giáo, hành, chứng của bản giác”.

Ngài Thân Loan đã trứ tác Giáo hạnh tín chứng 6 quyển, vốn có nhan đề Giáo hành chứng văn loại, theo đây mà biết sách này là từ pháp môn khẩu truyền của ngài đã chỉ dẫn. Không những như thế, mà trong Tu Thiền tự tương truyền nhật kí của ngài Tối Trừng trứ tác có nói: “Trong Ma-ha chỉ quán từ đầu đến cuối có nghĩa của giải, hành, chứng. Trên đây có sáu lớp: giải là diệu giải, hành là chính hành, chứng là quả báo, khởi giáo, chỉ qui v.v…”.

Cùng sách này cũng ghi: “Trong kinh Diệu pháp liên hoahuyết mạch ra khỏi sanh tử. Ở trong tín, hành, chứng có hai ý hoành và thụ, quán vô tướngkhởi hành chứng. Nhưng tín là ở phương diện hoành đầy đủ giải và hành”.

Lại nữa, trong Chẩm song chỉ của ngài Nguyên Tín trứ tác có ghi: “Biết tự thân tức là Phật, không còn mong cầu điều gì khác, tức là trụ đại hội bình đẳng, tức giải, tức hành, tức chứng”. Ngoài giáo, hành, chứng, còn lập riêng một khoa tín giải. Có lẽ ngài Thân Loan dựa vào đây mà kiến lập bốn pháp giáo, hành, tín, chứng mới mà thôi.

Theo truyền thuyết, Giáo hạnh chứng văn loại xuất hiện vào đầu niên hiệu Nguyên Nhân, soạn ở làng Thường Lục Đạo Điền. Lúc ấy, ở vùng Quan Đông đang lưu hành pháp môn khẩu truyền của phái Huệ Tâm, như ngài Nhật Liên cũng chịu ảnh hưởng pháp môn này, Huệ Tâm là phái đầu tiên đề xướng tư tưởng bản môn. Do đó, nhận định rằng ngài Thân Loan cũng lấy pháp môn của phái Huệ Tâm mà cổ xúy nghĩa mới.

Trong đó, ngài Thân Loan lấy hành, tín của chúng sanh vãng sanh làm đại hành, đại tín của Như Lai, xưng danh chân thật, đắc tín nhạo chân thậttức thời trụ vị chính định tụ, thành Đẳng chính giác, chứng Đại bát niết-bàn. Do tự thân tức Phật nên hiển thị hành tíncông đức vốn sẵn có đầy đủ của chúng ta; cho nên không còn nghi ngờ, đây chính là tư tưởng bản giác. Vì thế, ngài lấy sự tu hành ba nghiệp của chúng sanh là đủ rồi nên ngài bài xích pháp Tích môn thỉ giác, chỉ lấy văn tín[5] làm điều kiện quan trọng vãng sanh Tịnh độ.

Giáo hạnh chứng quyển 2 giải thích nghĩa chữ văn: “Chúng sanh nghe nguyện của Phật mà sanh khởi tín tâm, trước sau không nghi”. Chính tín kệ nói: “Tất cả phàm phu thiện hay ác, nếu nghe và tin hoằng thệ nguyện của Như Lai, nói Phật là quảng đại thắng giải, thì người này gọi là hoa phân-đà-lợi”, tức là nghĩa này vậy. Đây gọi là gặp thời liền chứng, chân chính truyền thừa thuyết tức giải, tức hành, tức chứng của ngài. Nghe và tin hoằng thệ nguyện của Như Lai thì gọi là quảng đại thắng giải, quyết chẳng phải là bản nguyện niệm Phật thông thường, cho nên gọi là nghe và hiểu sâu sắc thì tự thân tức Phật.

Mục đích của pháp môn Tịnh độvãng sanh Tịnh độ., mặc dù ngài Thân Loan chủ trương tín, hành là đại hành, đại tín của Như Lai. Nhưng tín hành, chứng quả này cần phải vãng sanh Tịnh độ thì mới có thể được. Nhưng hiện nay ngài Thân Loan lấy ‘tất chí niết-bàn’ làm chứng quả này. Một niệm văn tín liền thành Đẳng chính giác, chính là ‘tức thân thành Phật’, không thể không nói là thoát li phạm vi của pháp môn Tịnh độ.

Tục ngữ nói: “Thợ săn đuổi theo con nai, chỉ thấy con nai không thấy núi rừng”. Phái bản giác của ngài Thân Loan vượt ra ngoài pháp môn Tịnh độ. Trái lại, còn chuyển hướng vào tông chỉ ‘tức thân thành Phật’ của tông Thiên Thai.


 

[1] Hồi thí 迴施:Đem công đức của mình hồi hướng cho chúng sanh khiến họ được vãng sanh về Tịnh độ.

[2] Ngũ công đức môn五功德門:Là năm quả tướng mà người vãng sanh Tịnh độ đạt được, đó là: Cận môn, Đại hội chúng môn, Trạch môn, Ốc môn và Viên lâm du hí địa môn.

[3] Nhất niệm tam thiên一念三千: Trong một niệm đầy đủ ba nghìn thế gian.

[4] Quả hải 果海: Công đức của quả Phật rộng lớn như biển.

[5] Văn tín 聞信:Nghe danh hiệu Phật A-di-đà liền sanh khởi tín tâm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9955)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20508)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34406)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9633)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20444)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19194)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8752)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8862)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12108)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22997)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8995)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9259)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9894)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10616)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10925)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12475)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9334)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9192)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9316)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21997)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22240)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10188)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8289)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8624)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8611)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9445)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8353)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8468)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10178)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23618)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9572)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8338)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8525)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7970)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8795)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10059)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8623)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30056)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24162)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9631)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28203)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23698)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12244)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8883)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9656)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9342)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9641)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30893)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27118)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32709)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33995)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27761)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58674)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10654)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13938)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14207)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10761)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28149)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant